Thứ Hai, 30 tháng 7, 2007

Nhật ký chiến trường" : Quảng Nam ác liệt (Phần 4)

18-7-1968



(...) Từ hôm đến A7 này mình cảm thấy rất dễ chịu và may ra có thể tranh thủ làm việc được. Mình và Anh được ở một căn nhà nhỏ của vợ chồng ông Huy bà Tú bên Thông Tấn Xã ở trước. Góc trong cùng là một chiếc hầm hàm ếch có mui thông ra ngoài. Kề trước miệng hầm là chiếc giường một. Chân giường là những chạc cây cắm xuống đất và dát giường là cuống những tàu lá cọ dài và dẹt đã bóng lên màu da bò. Thú vị nhất là chiếc bàn nhỏ có ghế đàng hoàng. Ban ngày và ban đêm đều có thể làm việc được. Nhà được che kín bằng những “bức tường” ghép bằng lá cọ. Xinh xắn và đầm ấm quá giữa khu rừng bằng phẳng trên đỉnh một ngọn núi cao đứng. Ở đây không sợ pháo kích vì núi rất cao, nhưng đêm thì lạnh buốt. Nửa đêm, Anh phải dậy lấy áo len mặc.

29-7-1968

Sau 7 ngày đi cõng các thứ còn bỏ lại ở A8 về A7, 12g trưa hôm qua 4 anh em mới về đến nhà. Thật chưa bao giờ vất vả như chuyến đi này. 6g sáng 22.7 thì ra đi. 3g30 chiều ngủ ở Đội 6. Lo pháo. Nửa đêm mình và Anh phải chui xuống hầm. 11 người mà chỉ độc một cái hầm. Mấy tốp người kia cứ muốn đùn bọn mình ra bãi ngủ. Thật tệ. Hôm sau vào A8. Lạc đường mãi ở chỗ bãi bom B52. Đi nhanh vùn vụt. Lạc hoài. Gai góc và cỏ rậm. Chân mình lấm tấm mụn. Dưới ngón chân trầy da xót như cào cấu mỗi lần lội suối. Mãi 4g chiều mới đến A8. Dọc suối vào, cây đổ, đất lở và những hố bom hiện ra. Càng vào gần nhà bom càng nhiều. Cả một khoảng rừng bị bạt đi vì bom. Nước suối vẫn còn ngầu đục vì đất xói lở, và ghê gớm hơn là ngay trước cửa nhà Văn Nghệ, một hố bom sâu hoắm, tròn loe ra như một cái ao lớn nằm lù lù chắn lối vào nhà, một cây to đổ ngang. Cửa bật tung. Đất bắn vào quanh nhà lầm bụi. Ghê thật. Thì ra ngay chưa đầy một ngày sau khi bọn mình chuyển, bom đã dội xuống. Lại một lần thoát chết.

(...) Mình tiếc ngơ ngẩn mấy tập giấy trắng nên cố mang theo một tập và tập truyện ngắn “Về làng” của Phan Tứ. Ngay cả tập này mình cũng chưa đọc ngoài mấy cái “Con đĩ”, “Trong đám mía” và “Hai anh em”. Mình cảm thấy nếu không được đọc thì y như dao không mài, khó mà viết nổi về cái Khu 5 rất xa lạ với mình này.

Buổi tối ra đến Làng Dần (Ban Dân Y Khu - BMQ) thì đã 5g chiều. Trời mưa. Đường dốc, vắt và muỗi. Bình thường từ A8 ra Làng Dần chỉ đi 2g đường thôi. Gặp anh Nhật về lấy đồ. Thì ra bọn mình ngủ lại đúng cơ quan cũ của anh Nhật. Bọn anh Nhật nhặt được ít bắp ngô bị B52 phạt trụi. Mình nướng ăn. Sôi bụng cả đêm. Sáng hôm sau 9 lần đi ngoài toàn nước. Thông và Anh cũng bị như thế. Chắc ngô có chất độc hoá học. Chúng nó thả chất độc hoá học vùng này ghê gớm quá. Mới hôm nào mình đi từ trạm 10 vào trạm 9 rừng hãy còn xanh tốt. Thế mà bây giờ cây đã khô đi. Lá rũ xuống những cành tái nhợt. Một thứ màu nâu xám ngoét. Cả một vùng rừng trụi. Đường giao liên đi xuyên giữa khu rừng bị chất độc hoá học. Nom tàn khốc biết chừng nào. Mình dẫm lên một hòn đá bập bênh giữa lòng suối. Ngã. Gậy gãy. Mặt đâm vào khe đá và người gieo xuống đá. Anh tái người đi. Mặt anh nhăn lại vì đau đớn. Mình cố bật cười để xua tan nỗi lo cho anh. Tối vừa nằm lên võng thì chiếc cọc gãy. Cả anh và mình đều ngã. Chân mình bị đá va vào trầy da. Mình tru tréo lên. Thật xấu quá. Tại sao có lúc mình lại cáu kỉnh với anh vô nghĩa lý như thế? Đêm ấy ngủ dưới hầm, nhưng yên ổn. Mấy hôm nay máy bay và pháo của nó ít hoạt động hơn. Chiến sự đang dữ dội ở Quảng Ngãi. Tiểu đoàn biệt kích đổ bộ xuống rẫy bắp đã rút, có mấy cán bộ cơ quan X đi nhặt được tới 3 gùi đồ hộp. Chúng nó cũng không sục sạo mà mình cũng không nổ súng gì cả. Nghe nói đêm 14.7 cái đêm B52 dữ dội ấy 17 bộ đội ở trại sản xuất chỗ rẫy bắp bị chết và 2 người bị thương.

Từ Làng Dần, hôm sau mấy anh em lại lạc đường mãi. Tới B2 đã 1g30 chiều, mà bình thường chỉ đi 1 tiếng đồng hồ. Trời vẫn mưa tầm tã. Đường qua bãi bom nhão nhoẹt vì sụt lầy và đất dính. Chân cứ muốn tuột ra ngoài dép. Nguyên do một lần bị lạc là tại ông Chất đi trước ông ấy mang nhẹ nên luôn vượt lên trước qua bãi bom B52, nghe tiếng máy bay, ông ấy sợ quá, thế là không nhận ra đường được nữa. Mình nhoài người lên dốc B52. Chân sụt xuống bùn, tay chống xuống, bò. Chiếc gùi cứ đè và xói vào lưng nặng trĩu. Nước mắt mình ứa ra. Mình khóc. Ngay lúc ấy mình cũng thấy vô lý quá, nhưng mình không thể cưỡng lại được. Chẳng phải mình sợ khổ đâu, có lẽ mình thấy tủi cực vì cái quan niệm về số phận ám ảnh. Mình luôn thấy những khó khăn, những vất vả cứ nhằm mình mà đay nghiến, mà hành hạ. Vượt bãi bom, bọn mình ăn cơm ngay bên miệng một hố bom nhão nhoét. Muỗi, ruồi, kiến bu vào những nốt mụn loét ở hai chân mình. Ăn cơm với mắm cái lại càng hút ruồi muỗi đến mạnh. Không có lấy một chỗ ngồi, đứng nhấp nhổm, ăn vội vàng rồi đi vào B2. Anh mệt quá, đòi nghỉ lại. Nhặt được ít chuối khô lại đem nấu canh, và rang ngô ăn.

30-7-1968

(...) Thực sự mình vẫn chưa thấy gì là khổ sở, chưa thấy tư tưởng bị dao động vì những nỗi cực nhọc ở đây. Trái lại, mình bắt đầu thấy tha thiết yêu cái khúc ruột miền Trung mà mình đang sống này. Mình có cái tình gắn bó và thông cảm với Khu 5 y như hồi mình bắt đầu về Quảng Nạp để đẻ ra “Đất cằn”. Lạ ghê. Trước đây mình rất ghét Khu 5, chỉ yêu Nam bộ và Huế. Bây giờ vào Khu 5, cái hấp dẫn mình trước hết, cái lôi kéo mình trước hết lại chính là cái khổ của Khu 5 - mảnh đất trung dũng kiên cường đi đầu diệt Mỹ. Cán bộ Khu 5 đi gùi cõng và lo ăn nhiều hơn Nam bộ và Trị Thiên. Cơ quan phải di chuyển nhiều hơn. Nhất là giai đoạn này lại càng ác liệt gấp bội… Hôm nay lẽ ra bọn mình xuống gần chợ Phú Thuận cõng gạo, nhưng bên nhà in đi lại phải quay về vì chúng nó càn.

Thế đấy, mảnh đất mà mình đang sống nó giống hệt như con người mình: vất vả, cực nhọc. Mình sung sướng được có mặt ở đây đúng vào giai đoạn gay go quyết liệt nhất của cuộc chiến đấu. Mình sung sướng được chịu đựng và vượt qua tất cả gian khổ vì đã gặp một mảnh đất đồng điệu với tâm hồn mình.

31-7-1968

… Bắt đầu “Hoa rừng” (Tác phẩm của Dương Thị Xuân Quý, gồm các truyện ngắn, bút ký viết trên miền Bắc và trong thời gian ngắn ngủi ở miền Nam - BT). Chật vật nhưng kiên nhẫn. Muỗi. Muỗi nhiều vô kể. Chúng nó luôn phá hoại sự yên tĩnh của mình. Nhưng dẫu sao cũng sướng hơn cái cảnh viết vụng trộm ở 47HC. Cứ nghe tiếng guốc là giật thót mình. Thật ghê tởm. Kể cũng hay. Cuối cùng thì con ngựa bất kham này đã vượt khỏi hàng rào dây thép gai ấy rồi.

3-8-1968

(...) Gạo bắt đầu thiếu mà địch lại đang càn ở Phú Thuận nên chưa xuống gùi được. Chiến dịch X2 đã mở màn. Ta đánh mạnh vào Đà Nẵng và bắc Quảng Nam. Tình hình càng gay hơn, mỗi tháng mỗi người phải tiết kiệm 2kg gạo bằng cách ăn thay 4 ống mì nhãn hiệu “Ông Phật”. (...) Sáng nay ngồi nói chuyện với Anh về Ly và Liên, về 195 Hàng Bông. Nhớ nhà quá. Đêm qua nhớ 195. Nhớ từ hạt bụi, từ chỗ Ly ngồi chơi, mình bỗng khóc oà lên. Kinh khủng quá. Xa 195 quá rồi trời ạ. Mình nhớ những buổi tối bạn bè, những ngày bận rộn và vắng vẻ ở 195. Rồi lo cho Ly…



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét