Thứ Tư, 5 tháng 12, 2012

Kinh doanh báo chí ở Việt Nam


Trong chuyến đi Miền Tây vừa rồi, tớ chợt nhận ra rằng báo chí Việt Nam chưa hề biết kinh doanh báo chí theo đúng nghĩa của từ kinh doanh. Vẫn biết rằng "báo chí là một sản phẩm đặc biệt" nhưng những người đang làm báo vẫn chỉ biết viết ra những gì mình thích, mình cho rằng là bạn đọc sẽ thích chứ chưa thực sự đáp ứng đúng nhu cầu của người mua (tức bạn đọc). Theo dõi báo chí trong thời gian gần đây tớ bỗng giật mình vì có cảm giác "các tờ báo giấy đang chạy theo xu hướng giải đáp các thông tin của cộng đồng mạng". Thực ra việc các báo đáp ứng nhu cầu thông tin của "cộng đồng mạng" cũng là một việc làm cần thiết, đáp ứng nhu cầu thông tin cho người đọc. Tuy nhiên, thực tế lại đang diễn ra hơi khác.
Thực tế đầu tiên phải nói đến là "số lượng phát hành của báo giấy" đang ngày càng giảm: Nguyên nhân của tình trạng trên thì có nhiều nhưng trước tiên thì lại chính là "báo điện tử". Hầu hết các tờ báo in lớn đều có báo điện tử (hoặc ít ra cũng là Trang thông tin điện tử như báo Pháp Luật TPHCM) và các tin bài được xuất bản trên báo giấy cũng đều được các báo điện tử đăng lại (dù có chậm hơn vài tiếng đến nửa ngày). Chính vì vậy, đa số người đọc là dân văn phòng, công chức và tầng lớp trung lưu đã ít mua báo giấy hơn vì họ có thể đọc thông tin trên báo điện tử. Chẳng có lý do gì để tôi phải bỏ ra 3700đ (thực tế báo dạo có thể lên tới 5000đ) chỉ để mua và đọc mỗi một tờ báo Tuổi Trẻ Tp.HCM trong khi tôi có thể nhẩn nha cafe và đọc hơn chục tờ báo khác nhau trên mạng, từ VN Express, Viet Nam Net, Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Pháp Luật TPHCM hay Người Lao Động....Đó là chưa kể sau khi báo chính đưa lên mạng thì có vô số bạt ngàn các Trang thông tin điện tử Tổng hợp "lấy lại" (chẳng cần xin phép và tất nhiên cũng chẳng trả xu nào) và "xào nấu" với đủ loại tít gợi cảm, xúc động và giật gân…Ví như buổi sáng, bạn chỉ cần vào Báo mới thì tất tật những gì mới nhất của báo điện tử lớn đều được cập nhật. Ở một góc nhìn kinh doanh thì báo điện tử của tất cả các báo đều đang phải chi trả một khoản tiền rất lớn trong khi đó số tiền thu được từ quảng cáo hầu như chẳng được bao nhiêu. Và như vậy, chính các báo giấy đang tự "bóp chim" mình.
Thực tế thứ hai là chính các báo cũng chẳng biết đối tượng bạn đọc của mình là ai. Chắc nhiều bạn sẽ phản đối mạnh mẽ quan điểm này nhưng các bạn hãy cứ bình tĩnh, tớ giải thích ngay đây. Đối tượng bạn đọc của báo điện tử chắc chắn sẽ khác với đối tượng bạn đọc của báo giấy (mặc dù khoảng trùng là có nhưng không nhiều). Đối tượng bạn đọc báo điện tử chắc sẽ rất ít mua báo giấy và đối tượng bạn đọc báo giấy thường là do không có điều kiện đọc báo điện tử. Do mức sống và nhu cầu hoàn toàn khác nhau nên nhu cầu thông tin của 2 đối tượng bạn đọc này cũng sẽ có rất nhiều điểm khác nhau. Chính vì không biết đối tượng bạn đọc của mình là ai nên nhiều cơ quan báo chí đã bắt báo giấy đáp ứng nhu cầu thông tin của bạn đọc báo điện tử. Kết quả là bạn đọc báo giấy thì không quan tâm nên không mua, còn bạn đọc báo điện tử thì ung dung mở laptop hay Ipad để đọc mà chẳng phải trả một xu nào cho cơ quan báo chí cả. Trong khi đó để đáp ứng nhu cầu thông tin thì tòa soạn báo đã phải huy động cả bộ máy với một nguồn lực tài chính không nhỏ. Kết quả thì chẳng được bao nhiêu và cứ theo cái đà này thì báo giấy sẽ tiếp tục đi xuống và báo điện tử chẳng thể đi lên.
Theo con số ước đoán thì hiện tại toàn bộ TPHCM sẽ nằm trong khoảng 10 triệu người (bao gồm cả dân thành phố và vãng lai). Đây rõ ràng là một thị trường đầy tiềm năng cho báo chí. Ấy thế nhưng thực tế thì tờ báo ra hàng ngày có số lượng phát hành lớn nhất Việt Nam ở vào thời điểm phát hành được cao nhất cũng chưa bao giờ vượt quá nổi con số 500.000 bản/kỳ. Và nếu cộng tất cả số lượng phát hành của 10 tờ báo lớn ở TPHCM thì con số phát hành cũng chỉ dừng lại ở con số trên dưới 01 triệu bản/kỳ, chỉ bằng 1/10 dân số TPHCM. Nếu cứ trừ đi 50% dân số của Tp.HCM sử dụng báo điện tử và tiếp nhận thông tin từ các phương tiện truyền thông đại chúng khác (như truyền hình, phát thanh…) đi nữa thì rõ ràng khoảng trống trong kinh doanh báo chí là vẫn còn. 
Qua chuyến đi Miền Tây vừa rồi thì tớ cũng nhận thấy rằng các cơ quan báo chí ở TPHCM đang quá chiều chuộng bạn đọc ở TPHCM mà quên mất rằng cũng có rất nhiều bạn đọc của họ ở Miền Đông, Miền Tây, Miền Trung - Tây Nguyên… cũng rất cần thông tin về những gì đang diễn ra xung quanh họ, có giá trị sát xườn với chính cuộc sống của họ. Đây cũng chính là "thị trường ngách" có tiềm năng rất lớn nhưng hầu như không được các báo quan tâm đầu tư. 
Vậy kinh doanh báo chí trong thời gian tới phải như thế nào? Theo tớ cần rõ ràng và rạch ròi giữa báo điện tử và báo giấy. Bộ phận Báo điện tử phải sản xuất tin bài riêng, hoạt động kinh doanh riêng và chắc chắn là phải thu tiền người đọc cũng như thu tiền từ tất cả các trang lấy lại tin bài của mình. Bộ phận báo giấy có thể "bán" tin bài đã sản xuất cho bộ phận báo điện tử. Mặt khác, có thể tổ chức bộ phận tòa soạn "độc lập" ở từng khu vực để phát triển "thị trường ngách" với cái khung là trung tâm thông tin từ tòa soạn chính ở TPHCM. 
Và điều quan trọng nhất là cần phải xây dựng một đội ngũ kinh doanh báo chí thực thụ, tức là biết kinh doanh, biết làm báo chứ không chỉ biết viết báo.

 (Rảnh nhảm thế đã, các bạn có ném đá gì thì em xin nhận tất).

Thứ Tư, 7 tháng 11, 2012

Chuyện lạ về đơn kiến nghị của nhân sỹ trí thức về việc bắt em Phương Uyên.

Trên các trang mạng Internet đã đăng tải rất nhiều tin, bài viết xung quanh bản "Kiến nghị Chủ tịch nước ra chỉ thị trả tự do ngay cho sinh viên Nguyễn Phương Uyên".Xin tạm không lạm bàn về tính đúng sai trong việc bắt giữ, hay kiến nghị của các "nhân sỹ, trí thức" đã tham gia ký tên, chỉ nêu lên 01 vấn đề mang tính "mới, lạ" của bản kiến nghị lần này. Đó là việc thông tin trên mạng chỉ công bố 144 người tham gia ký tên, thế nhưng lại có 01 "dị bản" cho thấy có tới 154 người tham gia ký tên. Và 10 người ký tên đó lại là những người được ký tên sau khi bản kiến nghị đã gửi đi. Thôi thì cứ đăng tải lên đây để "rộng đường dư luận":

* Nội dung bản kiến nghị và danh sách 144 người thì thôi tớ không đưa lại nữa, chỉ đưa lên đây danh sách "10 người ký tên sau khi kiến nghị đã được gửi đi".

Trích:


DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI KÝ TÊN SAU KHI KIẾN NGHỊ ĐÃ ĐƯỢC GỬI ĐI
1.         
Huy Đức
Nhà báo
TP HCM
2.         
Dương Hồng Đức
Nhà giáo
Pháp
3.         
Hoàng Thị Hiệp

Pháp
4.         
Trương Thế Kỷ

Đức
5.         
Nguyễn Kim Cương
Bác sĩ
Hà Nội
6.         
Bùi Chát
Nhà thơ
TP HCM
7.         
Đặng Trần Kính

Hoa Kỳ
8.         
Nguyễn Thu Trang

Hà Nội
9.         
Nguyễn Thành Long
Chủ tịch HĐQT trường Du lịch và Tiếp thị Quốc tế
TP HCM
10.    
Phan Hồng Giang
TS, nguyên Hiệu trưởng trường Viết Văn, Hội Nhà Văn Việt. Nam
Hà Nội

Vì những lý do bất khả kháng, chúng tôi xin dừng việc ký tên vào Kiến nghị ở đây.
 
Hết trích.

Bản kiến nghị này được ghi ngày 30/10/2012, có lẽ được gửi đi ngày 1/11/2012.

Update: Bổ sung ghi rõ nội dung trích, hết trích và thời gian phát hành bản kiến nghị.

Thứ Ba, 4 tháng 9, 2012

Tản mạn chuyện "Quan Làm Báo"



Trong khoảng cuối tháng 8 vừa qua cộng đồng mạng đã chứng kiến tình trạng nhốn nháo thi nhau vào đọc blog "Quan Làm Báo" để nắm bắt thông tin và rồi…thi nhau thất vọng. Nhưng cho đến tận giờ này cũng còn rất nhiều người hi vọng…

Trang blog Quan Làm Báo ra đời vào ngày 07/6/2012 và chỉ trong vòng hơn 2 tháng, blog Quan Làm Báo đã thu hút hơn 9 triệu lượt truy cập. Nói đến QLB thì người hay vào đọc trang này sẽ lập tức nghĩ ngay đến loạt 04 bài thông tin liên quan đến tình hình tài chính, ngân hàng; liên quan đến các vụ mua bán, sát nhập các ngân hàng và nóng hổi nhất là các thông tin liên quan đến nhân sự cao cấp của chính phủ và Bộ chính trị. Và giai đoạn cao trào nhất của QLB chính là thời điểm bắt, tạm giữ Nguyễn Đức Kiên, Lý Xuân Hải. Câu hỏi đặt ra là tại sao một blog mới như QLB lại có thể thu hút người đọc một cách nhanh chóng như vậy?

Có thể nói trong 04 loạt bài đầu tiên về tình hình kinh tế, tài chính QLB đã "đánh trúng" và giải tỏa được tâm lý tò mò của một "bộ phận không nhỏ" trên  cộng đồng mạng khi lý giải những vấn đề sát nhập ngân hàng, thâu tóm doanh nghiệp bằng những thông tin "tổng hợp từ báo chí" mà chỉ những người ở trong ngành tài chính-ngân hàng mới hiểu (mà không nói/hoặc chưa nói). Thực ra vụ việc M&A của Phương Nam Bank với Sacombank đã được truyền miệng trong giới tài chính ngân hàng từ lâu nhưng không có ai có đủ thông tin và tài liệu để khẳng định chính xác bản chất vụ việc. Lờ mờ nhận ra cách làm, cách thâu tóm thì có như để "chắc như đinh đóng cột" thì chẳng một ai dám khẳng định. Nhận định chung của giới nghiên cứu kinh tế về những thông tin trên QLB là chính xác đến 60-70%, còn lại là "chém gió".
Sau "cơn bão" thông tin về tài chính - ngân hàng đi qua, QLB trở lại với thông tin xào xáo trên mạng. Nhưng vẫn còn đó những hi vọng thông tin tiếp nối thông tin nên lượng bạn đọc truy cập QLB dù có giảm nhưng vẫn còn khá nhiều. Chiều ngày 19/8, giới phóng viên mảng nội chính ở Hà Nội bắt đầu xôn xao vì thông tin bắt bầu Kiên. Không một ai (cá nhân/pháp nhân) xác nhận chính thức thông tin này. Tin đồn vì thế cứ tiếp tục lan rộng. QLB nhanh chóng đưa tin, kèm theo vài thông tin về các vụ thương vụ mua bán, sát nhập ngân hàng trước đây đã từng thông tin tiếp tục được xào lăn (lại). Có vẻ như sự trùng hợp giữa những thông tin mà QLB đã từng đăng tải về các thương vụ "áp phe" thâu tóm và sát nhập ngân hàng với việc CQĐT bắt bầu Kiên khiến cho bạn đọc (ảo) ngạc nhiên pha lẫn kinh ngạc và "thán phục" (?). Báo chí trong nước "ngơ ngác" nhìn bạn đọc (ảo) chạy về đọc tin trên QLB mà trong lòng như lửa đốt, máu cạnh tranh nghề nghiệp nổi lên cao ngất, tưởng như có thể đốt cháy dãy Trường Sơn. Sáng ngày 21/8, báo Tuổi Trẻ Online mới có sự xác nhận chính thức từ Phó Tổng Cục trưởng TCCS để đăng tin và từ đó, các báo khác lấy lại để thông tin (và tất nhiên - không quên thêm mắm muối).

Ngày 22/8, lần đầu tiên trong lịch sử báo chí Việt Nam, báo Thanh Niên đăng tin "Thông tin bịa đặt" trên báo điện tử để khẳng định: "…một số trang mạng cho rằng một số tờ báo trong đó có cả Thanh Niên, đã đăng tải các bài viết “nhằm tô son, trát phấn” cho các ông Trầm Bê và bầu Kiên…là hoàn toàn bịa đặt". Một số trang mạng ở đây có "phần nhiều" là từ QLB!

Chưa dừng lại ở đó, tiếp tục xuất hiện tin đồn bắt tạm giam Lý Xuân Hải - Tổng giám đốc ACB. Làng báo lại "sôi sục", các nhà mạng liên tục nghẽn mạch vì điện thoại để "check thông tin" của giới PV. Chiều tối ngày 23/8, các phóng viên nội chính tập trung rất đông trước cửa nhà ông Lý Xuân Hải. Dù thấy rất rõ lực lượng Công an đi vào nhà nhưng cũng không báo nào dám chắc chắn để thông tin với bạn đọc rằng đã "bắt tạm giam" hay đã "khám xét". Phóng viên nội chính lại xôn xao, các báo điện tử trong nước thi nhau đăng lên rồi rút xuống chỉ trong vòng có chưa đầy 06 tiếng. Vẫn không có (cá nhân/pháp nhân) xác nhận thông tin. QLB thong thả nhả từng tin: Đã bắt Lý Xuân Hải, hiện nay đang giam lỏng Trầm Bê, Hồ Hùng Anh và Nguyễn Đăng Quang đã xin tự thú…. Sáng hôm sau, gần như tất cả các báo đều đăng tin theo TTXVN về việc bắt tạm giam " Lý Xuân Hải - nguyên TGĐ ACB ".

Tại sao QLB có thể làm được điều ấy? Đơn giản vì QLB chẳng bị ràng buộc bởi nguyên tắc nghề nghiệp hay đạo đức làm báo nào cả. Có chăng thì cũng chỉ là thông tin giống như chương trình "dự báo thời tiết" trên VTV ngày nào cũng phát.

Và đến giờ này thì "bão đã tan", QLB lại trở về với "cái máng lợn". "Phong độ là nhất thời, đẳng cấp mới là mãi mãi" - việc gì phải xoắn nhỉ?

Thứ Tư, 1 tháng 8, 2012

Bọn trẻ sẽ dắt ta đi?

Hôm qua có một người bạn hỏi mình về việc nên cho con gái đọc sách gì, thời buổi hiện đại thật khó để định hướng các cháu. Chợt nhớ lại cái note của anh Hải trên FB mà sau đó báo TTCT lấy lại để làm thành hẳn 01 chuyên đề dài ngoẵng mấy kỳ. Tìm lại note trên FB của anh Hải không thấy đành lấy lại bài trên báo TTCT.

-----------

Rất nhiều gia đình Việt Nam, sống ở trong hay ngoài nước, đang ẩn chứa trong lòng những câu hỏi lớn về mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, nhất là khi công nghệ và tốc độ sống đang mang lại những biến đổi âm thầm và lớn lao trong xã hội đương đại.

Trong hành trình tìm kiếm và gìn giữ bản sắc, truyền thống, bồi đắp những “con người riêng”, ta có gì cần ngoảnh lại nhìn?

Công việc của tôi thường phải đọc và suy ngẫm những vấn đề về văn hóa cộng đồng, nên thỉnh thoảng hay gặp những câu chuyện rất lý thú mà các đồng nghiệp ngành Việt Nam học trên thế giới đem ra chia sẻ, như một báo cáo mới gần đây từ Đại học Tổng hợp Warszawa.
Bọn trẻ có soi “gương” để noi theo?
Khi nghiên cứu cộng đồng người Việt ở Ba Lan, tiến sĩ Teresa Halik phát hiện một vấn đề mà có lẽ tất cả người Việt dù đang sống ở đâu cũng sẽ cảm thấy cần suy nghĩ. Xuất phát điểm để hiểu điều này là hiện tượng các gia đình người Việt ở nước ngoài thường chỉ có hai thế hệ là bố mẹ và con cái, thiếu vắng hẳn sự có mặt và vai trò truyền thống của ông bà. Do điều kiện địa lý cách trở, vé máy bay tốn kém, thủ tục visa rắc rối và cả điều kiện tài chính bên cạnh nhiều yếu tố khác, số lượng thành viên trong một đơn vị gia đình được rút xuống tối thiểu.
Các em bé Việt Nam sinh ra và lớn lên trong môi trường không chỉ không có ông bà, mà còn mất mát mối quan hệ với cô dì chú bác và anh em họ. Hơn vậy, nhiều em hầu như không mấy khi gặp bố mẹ đang phải vất vả lo toan cuộc sống từ sáng sớm đến tối mịt, phó thác con cho nhà trường, bạn bè và bảo mẫu - thường là một bà Tây gần nhà.

Nhìn rộng ra thì đây không chỉ là hiện tượng của các nhóm di dân kinh tế người Việt ở nước ngoài mà có thể xảy ra bất cứ nơi đâu ở chính ngay tại Việt Nam, khi thanh niên rời quê đi lập nghiệp, kết hôn và nuôi con ở các thành phố và trung tâm công nghiệp. Thậm chí ngay cả khi bố mẹ và ông bà cùng sống trong một thành phố nhưng cường độ công việc và áp lực cuộc sống cũng thường khiến cả nhà không mấy khi gặp nhau.

Đây không chỉ là hiện tượng đơn lẻ mà còn là câu chuyện của thời đại, là dấu hiệu cho thấy cấu trúc nền tảng trong xã hội đã thay đổi, như từng được một trong số những nhà nhân học hàng đầu thế giới là giáo sư Margaret Mead dự báo trong một bài giảng, độc giả quan tâm có thể tìm đọc quyển sách của bà về văn hóa và sự gắn kết, có sẵn trên mạng ở địa chỉ http://mx.esc.ru/~assur/ocr/mead/mead.htm.

Khởi đầu từ những nghiên cứu trên các đảo ở Thái Bình Dương mà nhiều nhất là Samoa, chủ tịch Hiệp hội Nhân học Hoa Kỳ dần liên kết thêm các quan sát thế giới đương đại để xây dựng cơ sở lý thuyết văn hóa nhìn vào tiến trình lịch sử thế giới. Theo đó, cũng như ba chương trong tập sách vừa kể, lịch sử thế giới đương đại có thể được phân kỳ thành ba giai đoạn, nếu nhìn qua lăng kính của khái niệm figurative, tức mô hình tạo dựng bản sắc.

Trong xã hội truyền thống của quá khứ, tức phân kỳ đầu tiên mà giáo sư Mead gọi là postfigurative, các hình mẫu đã được định hình qua năm tháng và đứa trẻ lớn lên trong khuôn khổ gia đình, tiếp nhận bản sắc văn hóa từ những người già trong cộng đồng mà gần nhất là ông bà mình. Trong xã hội đương đại cũng như trường hợp cộng đồng di dân ở Ba Lan, xã hội chỉ còn lại mối liên kết giữa hai thế hệ là phụ huynh và con cái, mà mỗi người đều phải tự bươn chải để thích nghi với cuộc sống mới.

Di dân thế hệ một và con cái của họ đều đứng cùng một vạch xuất phát điểm để học tất cả những thứ cần thiết cho cuộc sống hằng ngày trên mảnh đất mới, từ ngôn ngữ, luật lệ đến phong tục, văn hóa và cả những thói quen nhỏ nhặt. Thường nhờ lợi thế cả về điều kiện học tập lẫn tiếp xúc mà các em ở thế hệ hai sẽ vượt xa bố mẹ.

Cùng nhau tìm kiếm bản sắc?

Xã hội đương đại cũng tràn ngập những sản phẩm của nền văn minh, nổi bật nhất là các thế hệ thiết bị điện tử và hệ thống mạng, đặt các bậc phụ huynh vào thế yếu trong cuộc chạy đua bên cạnh con cái. Trong một xã hội như vậy, bản sắc và cá tính con người không còn chịu nhiều ảnh hưởng từ ông bà với vai trò nay đã mờ nhạt, mà hình thành chủ yếu qua mối quan hệ với bạn bè đồng lứa, thế hệ bố mẹ với bố mẹ, thế hệ con cái với con cái. Vòng ảnh hưởng có thể nhỏ như liên kết cộng đồng ở tổ dân phố, khu dân cư hay công việc và nơi vui chơi giải trí, cũng có thể rộng như mạng lưới xã hội trên Internet, điển hình như Facebook, trên phạm vi toàn cầu.

Trong bối cảnh đó của thời đương đại, bản sắc được hình thành trong mối quan hệ tác động qua lại bổ sung lẫn nhau, tức là cofigurative như giáo sư Mead phác họa cho phân kỳ thứ hai. Điều này thật ra cũng không quá mới mẻ với nhiều người Việt, khi trong xã hội truyền khẩu nhau kinh nghiệm “học thầy không tày học bạn”, nhắc nhở về tầm quan trọng của bạn đồng lứa.

Sau ngày mở cửa thì thế hệ con cái và thế hệ phụ huynh ở Việt Nam ở vào thế cùng đứng trước một xuất phát điểm trong cuộc chạy đua tìm hiểu thế giới, mà trong nhiều gia đình thì thế hệ trẻ có nhiều lợi thế hơn. Nhiều người ý thức được giới hạn của mình nên sẵn sàng “hi sinh đời bố củng cố đời con”, tạo cơ hội cho con trẻ hội nhập thế giới toàn cầu từ rất sớm.

Nếu quan sát kỹ cộng đồng người Việt ở các nước, chúng ta sẽ còn ghi nhận thêm một biểu hiện là sau khi nhận thấy mình thua kém con cái trong quá trình hội nhập thì thế hệ phụ huynh sẽ phải học ngược từ thế hệ con cái để bảo đảm cuộc sống. Ở Ba Lan chẳng hạn, bạn có thể hình dung ra chuyện bố mẹ không biết tiếng Ba Lan và phải lệ thuộc vào con cái làm phiên dịch trong buổi họp phụ huynh.

Đến phần gặp riêng giáo viên chủ nhiệm và phải lựa chọn giữa hai phương án thì có khi con họ chỉ chọn dịch duy nhất phương án mình thích và thêm vào câu kết luận là cô giáo bảo như vậy, thay vì dịch chính xác cô giáo bảo chọn giữa hai phương án và trình bày phương án còn lại. Và phụ huynh chỉ có một con đường là gật đầu với phương án mà chính con mình đã chọn, mất đi quyền uốn nắn con theo cách tính của mình.

Những chuyện tương tự như vậy rất thường xảy ra không chỉ trong cộng đồng người Việt ở đây. Và sau đó trong rất nhiều gia đình, con cái được trang bị trình độ đại học thật sự ở nước ngoài cũng sẽ hơn hẳn phụ huynh từ luật pháp, tài chính đến chính trị, xã hội và tâm lý cuộc sống, rồi nhanh chóng nắm quyền chi phối trong các quyết định kinh doanh hay cuộc sống của toàn gia đình.

Mô hình tiếp biến văn hóa theo chiều ngược như vậy được giáo sư Margaret Mead ghi nhận bằng thuật ngữ prefigurative, tức là xã hội chưa hề có hình mẫu nào, phải học theo những đứa trẻ mà bây giờ mới đang hình thành bản sắc. Hơn vậy, đó sẽ là xã hội trong tương lai, tức phân kỳ lịch sử văn hóa thứ ba mà nếu xét thời điểm bài giảng của giáo sư Mead là vào năm 1969, đây chính là quy luật hoạt động của xã hội toàn cầu mà chúng ta đang sống hiện nay.

Vấn đề là sau khi nhận ra quy luật của lịch sử văn hóa, mỗi phụ huynh còn phải dám vượt qua ego (cái tôi) để học tập từ con mình, không chỉ để biết “con hơn cha nhà có phúc” mà còn dám nhận “trứng khôn hơn vịt” trong ngôi làng toàn cầu của thế giới phẳng mà chúng ta đang sống. Bởi nếu không thì các vị tiên chỉ nhà ta đến một ngày sẽ phải nghe không phải là con cháu mình giảng bài mà chính là những bạn trẻ như Dâu Tây (Joe Ruelle) hay thầy cúng Paul Sorrentino (*) và tiến sĩ Edyta Roszko (**) dạy lại về bản sắc văn hóa Việt Nam.

Bạn sẽ muốn phụ thuộc vào một thế hệ trẻ đầy ẩn số là con cháu mình hay con cháu những cộng đồng dân tộc xa lạ nào đó? Trong một thế giới mà các bạn trẻ Việt Nam sẽ tự do chọn lựa bản sắc, nếu không học hỏi con cháu để tạo mối dây gắn kết thì đến một ngày bọn già chúng ta sẽ cô đơn ngồi tranh cãi trên mảnh đất không còn đơm hoa kết trái - mải mê hồi tưởng về một thời xa xưa “có gì đẹp hơn lúa” khi xung quanh một đám trẻ từ nơi khác từ lúc nào đã tràn ngập và đang thay đổi hết mọi đường đi lối lại lẫn ngay cả tên địa danh nơi này - để rồi ngơ ngác hỏi nhau: (chúng) ta (sẽ) là ai?
Thế giới từng lên cơn sốt vì những chiếc máy Walkman của đám trẻ thích đeo tai nghe và nhún nhảy khắp mọi nơi, khiến tất cả lứa tuổi đều chạy theo thế hệ Walkman. Cách đây không lâu, ta có thế hệ @ của những chàng trai cô gái sống trong không gian ảo nhiều hơn ngoài đời thật, nói chuyện với nhau toàn bằng từ ngữ lượm lặt từ game online, khiến các bậc phụ huynh phải học dùng webcam để mà còn chat.
Gần hơn nữa người ta nói nhiều đến thế hệ viết blog, một thú tiêu khiển mà ban đầu chỉ là dành cho thanh thiếu niên nhưng đã nhanh chóng gây nghiện cho những tên tuổi năm sinh không phải 9x, 8x, thậm chí là 7x, 6x... Thế hệ phụ huynh luôn phải chạy theo những trào lưu khó mà dự báo trước của thế hệ trẻ, cho nên để cho tiện người ta đặt tên luôn là thế hệ X - một ẩn số. Nếu bạn không hiểu ít nhất một nửa những từ khóa vừa được dùng trong đoạn văn này thì chắc sẽ rất vất vả mới đuổi kịp thời đại.

LÊ THANH HẢI
(nghiên cứu sinh Viện hàn lâm Khoa học Ba Lan)

Thứ Năm, 12 tháng 7, 2012

Nhân cái chết của nhà văn Nguyễn Mộng Giác: Những chặng đường của Tạp chí Văn Học


Gửi hương hồn Cao Xuân Huy và Nguyễn Mộng Giác
Hoàng Khởi Phong
 
Khi tôi viết những dòng chữ này, thì ở Nam California gia đình và thân hữu của nhà văn Nguyễn Mộng Giác đang tiến hành những nghi thức cuối, tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng. Trước đây gần hai năm cũng tại địa điểm này, cũng những thân hữu này, đã tiễn đưa nhà văn Cao Xuân Huy trong chuyến đi chót cùng của đời anh. Nguyễn Mộng Giác là Chủ nhiệm kiêm Chủ bút đầu tiên và Cao Xuân Huy là chủ nhiệm kiêm chủ bút cuối cùng của tạp chí Văn Học, một nguyệt san văn chương, xuất hiện ở hải ngoại từ năm 1985 cho tới 2008, khi Cao Xuân Huy lâm vào căn bệnh hiểm nghèo và không thể cáng đáng nổi việc điều hành tờ báo. Nói như thế có nghĩa là tờ Văn Học đã không còn hiện diện trong cõi đời này vài năm, trước khi những người chủ trương quan trọng nhất của tờ báo vĩnh viễn nằm xuống.

Để viết về Văn Học, tôi phải nhắc tới một tờ báo khác với một cái tên dài hơn là Văn Học Nghệ Thuật, và cũng phải nhắc tới căn nhà đầu tiên tôi mua vào năm 1983, trên đường Dapplegrey, thành phố Garden Grove. Đó là một căn nhà 4 phòng ngủ, và đàng sau có một cover patio rất rộng. Khi mua căn nhà này gia đình tôi chỉ có hai bố con tôi và hai người cháu trai. Tôi không thể hình dung được nửa năm sau, vợ chồng con cái Cao Xuân Huy từ một thành phố ở phía Bắc Cali dọn xuống miền Nam. Huy và tôi vốn là hai anh em họ Hồng Bàng, đã biết nhau từ khi Huy học trung học, và ngay cả sau này khi đã vào quân đội, Huy đã từng ăn dầm nằm dề ở nhà tôi. Năm 1971 ở Pleiku, Huy đi phù rể với nhiệm vụ chụp hình cho đám cưới của tôi, nhưng rút cục tôi không có một tấm ảnh nào trong ngày cưới. Chẳng những thế tôi còn mất cả chiếc máy ảnh đi mượn, bởi vì anh còn mải uống rượu với những người bạn thân của anh và tôi từ Sài Gòn lên. Do đó đầu năm 1984 khi anh dọn xuống Nam Cali, nhà tôi tất nhiên là nơi trú ngụ ban đầu cho vợ chồng con cái anh. Chỉ vài tháng sau khi Cao Xuân Huy đổ bộ từ phía Bắc xuống, tới phiên bố con Nguyễn Mộng Giác thiên đô từ Texas qua. Nguyễn Mộng Giác và tôi vốn là bạn văn từ những năm đầu thập niên 70, nên khi anh dọn qua Nam Cali, nhà tôi chính là nơi anh sẽ tạm trú trong lúc chân ướt chân ráo mới đến. Rút cục căn nhà đó có một thời gần giống như một trại tị nạn, với số người lớn nhỏ cả thảy 16 người, và được phân phối như sau: Hai bố con tôi một phòng, bố con Nguyễn Mộng Giác một phòng, vợ chồng Cao Xuân Huy một phòng, hai người cháu tôi một phòng. Còn tất cả những cậu con trai bị dồn hết vào trong cái patio được làm thành một phòng ngủ tập thể. Trong thời gian này điều phiền nhiễu nhất cho chúng tôi chính là chỗ đậu xe, bởi vì vỉa hè trước cửa nhà tôi nhiều lắm chỉ có thể chứa được bốn chiếc xe, kể cả driveway, trong khi những người trong nhà có tới bảy chiếc xe, đó là chưa kể tới khách khứa văn nghệ của Giác và tôi, cùng với  khách nhà binh của Cao Xuân Huy nườm nượp ra vào. Nhất là những dịp cuối tuần, chúng tôi làm phiền hai bên hàng xóm hầu như suốt từ chiều Thứ Sáu cho tới khuya Chủ Nhật. Thời gian này Cao Xuân Huy chưa chính thức viết, tuy nhiên anh đang ngấm ngầm viết những dòng đầu của cuốn hồi ký làm nên tên tuổi nhà văn Cao Xuân Huy sau này, đó là cuốn Tháng Ba gãy súng.

Tháng 4 năm 1985, nhà văn Nguyễn Bá Trạc từ San Jose xuống thăm chúng tôi, anh mang xuống miền Nam một không khí sôi nổi như con người anh. Trong lúc ngồi quán cà phê với Nguyễn Mộng Giác và tôi, cùng quan sát cộng đồng biểu tình, Nguyễn Bá Trạc nói với chúng tôi có lẽ bọn mình nên làm một cái gì đó, một tờ báo chẳng hạn. Nguyễn Bá Trạc đã từng một mình chủ trương tờ Thời Luận ở trên San Jose, đây là tờ báo sớm nhất trong vùng Bắc Cali từ năm 79, nhưng không thể trụ nổi vì thời gian đó việc buôn bán của người Việt trên San Jose chưa mấy phát đạt, mà tờ Thời Luận là một tờ báo tựa vào quảng cáo nên không thể tồn tại. Do đó tôi trả lời Nguyễn Bá Trạc là tôi không mặn vụ làm báo quảng cáo. Tối đó tại nhà tôi ngoài các gia chủ Nguyễn Mộng Giác, Cao Xuân Huy, Hoàng Khởi Phong còn có thêm Nguyễn Bá Trạc cùng hai thân hữu nữa, chúng tôi bàn thô về một tờ báo văn học thuần túy.

Sau khi Nguyễn Bá Trạc quay trở lại San Jose, Nguyễn Mộng Giác và tôi càng ngày càng nung nấu ý nghĩ về tờ báo thuần túy văn học này. Trước đó hai năm tờ báo văn chương thuần túy là tờ Văn Học Nghệ Thuật do hai nhà văn Võ Phiến và Lê Tất Điều chủ trương sống lây lất chưa đầy mười số thì phải đình bản, và bấy giờ trên thị trường chữ nghĩa của người Việt hải ngoại còn duy nhất một tờ Văn, do nhà văn Mai Thảo chủ trương. Lần họp thứ hai cũng ở nhà tôi, có nhiều anh em văn nghệ hơn, nhưng tựu trung có hai ý kiến: Một là tìm cách quy tụ hết tất cả những cây viết thành danh, bày hàng tất cả những người hiện đang sống bên ngoài đất nước trên trang bìa tờ báo. Ý kiến thứ hai dường như thiểu số tuyệt đối, vì chỉ có mình tôi cho là không cần các tên tuổi lớn, chỉ cần trong vài số đầu chứng tỏ cho độc giả thấy đây là một tờ báo văn học thuần túy. Ban đầu với những cây viết mới có thể không gây được tiếng vang, nhưng đó là tờ báo, mà những người chủ trương trân trọng từng bài thơ, từng mẩu chuyện. Tôi chủ trương tin vào chính mình, viết cho tới không sớm thì muộn độc giả cũng mở vòng tay đón nhận tờ báo.


Từ trái sang phải: Phan Nhật Nam, Khánh Trường, Hoàng Chính Nghĩa, Hoàng Khởi Phong và Cao Xuân Huy.

Rút cục tờ báo xuất hiện với sự tham dự của khá nhiều cây bút đã thành danh ở trong nước. Với sự hiện diện của nhà văn Võ Phiến ở vị trí Chủ nhiệm, tờ báo là sự tiếp nối, hay khác đi là sự tục bản tờ Văn Học Nghệ Thuật, và hầu như tất cả mọi thành viên đều cho là với cái tên này, ít nhất tờ báo không mang vẻ cạnh tranh với tờ Văn của nhà văn Mai Thảo. Vị trí Chủ bút do nhà văn Lê Tất Điều đảm nhiệm, và Nguyễn Mộng Giác là Tổng thư ký. Đó là bộ ba thực sự điều hành tờ báo, phần tôi là Chủ nhiệm trên phương diện pháp lý, nghĩa là có bổn phận hàng năm khai thuế. Ngoài ra nhà văn Nhật Tiến tuy không giữ một chức vụ nào, nhưng nhà anh là nơi mỗi tháng nhóm chủ trương họp một lần, ăn với nhau một bữa cơm, nhận báo mới, và đồng thời chọn chủ đề, phân chia bài vở cho số sắp tới. Sở dĩ chọn nhà anh Nhật Tiến vì ông Chủ nhiệm Võ Phiến ở hướng Bắc tại Los Angeles, chủ bút Lê Tất Điều ở phía Nam tại San Diego, nhà tôi thì đang là trại tị nạn, và nhất là chị Phương Khanh với các cháu gái con anh chị Nhật Tiến sẽ đãi nhóm chủ trương một bữa ăn đích đáng.  

Chỉ sau vài số báo, Văn Học Nghệ Thuật được các cây bút hải ngoại tới tấp gửi bài tham dự, cũng như sự trợ giúp tài chánh của những người coi văn chương như là món ăn tinh thần. Khoa học gia Trương Vũ, là một thí dụ điển hình. Trương Vũ là người của khoa học, ông làm việc tại NASA, nhưng đã có những đóng góp đáng kể cho văn học Việt Nam ở hải ngoại. Năm 1995, hai mươi năm sau khi chiến tranh tàn, Nhà xuất bản Cub Stone ở tiểu bang Massasschusset dự định ấn hành một tuyển tập văn học về hậu chiến Việt Nam, quy tụ nhà văn của Việt Nam ở trong nước và nhà văn Mỹ. Chính nhờ sự đóng góp của Trương Vũ trong thành phần chủ biên, khi tuyển tập The Other Side of Heaven ra đời, nó có thêm tiếng nói của tám cây bút Việt Nam ở hải ngoại, cùng xuất hiện với mười hai cây bút Việt Nam ở trong nước và mười tám cây bút Hoa Kỳ. Nói tóm lại sau khi chiến tranh tàn được hai chục năm, đây là một tác phẩm quy tụ nhà văn của ba phe tham chiến, đã từng tận lực bắn giết nhau ngoài mặt trận. Không riêng gì Văn Học nhận được sự trợ giúp hết lòng của Trương Vũ, sau này khi tờ Hợp Lưu ra đời, anh cũng là một người lúc nào cũng mở hầu bao cứu cấp, mỗi khi hai tờ Văn HọcHợp Lưu gặp phải những cơn khủng hoảng tài chánh.

Tròn một tuổi do những hoàn cảnh cá nhân, lại xa xôi cách trở, nhà văn Võ Phiến và Lê Tất Điều rút ra khỏi ban chủ biên, tờ Văn Học Nghệ Thuật đối diện với lần lột xác đầu tiên, trở về với cái tên dự định ban đầu là Văn Học. Trong lần cải tổ này Nguyễn Mộng Giác ở vị trí Chủ nhiệm kiêm Chủ bút, tôi đảm nhiệm phần vụ cũ của Nguyễn Mộng Giác, nghĩa là Tổng thư ký cho tờ báo. Về công việc thì Nguyễn Mộng Giác vẫn gánh vác nhiều hơn cả, vì anh đang viết thuê cho một tờ báo chuyên về quảng cáo, nên có nhiều điều kiện lo cho tờ Văn Học hơn tôi. Thời gian này tôi vẫn là một người làm thợ tiện ca ba, nghĩa là đi làm từ 11 giờ đêm tới 6 giờ sáng, mỗi khi về tới nhà tôi lăn quay ra ngủ tới một, hai giờ chiều mới trở dậy, đi lấy thư với hy vọng có thêm nhiều độc giả dài hạn, có thêm tiền để lo trả nợ nhà in, mua thêm tem để gửi báo. Và rồi mỗi tháng một, đôi lần tôi và Cao Xuân Huy ôm một đống báo ra Bưu Điện. Tôi cũng có nhiệm vụ trả lời thư tín của thân hữu và bạn đọc. Riêng về Cao Xuân Huy, anh không còn là một người lính thuần túy như trước kia, lòng tiếc thương đồng đội cũ, càng ngày càng dìm anh lún sâu vào con đường chữ nghĩa. Đêm đêm khi tôi lên đường kiếm ăn trong xưởng tiện, thì ánh đèn trong phòng riêng của vợ chồng, con cái anh vẫn còn le lói, và tôi biết anh đang ráo riết hoàn thành những trang cuối của cuốn hồi ký viết về sự sụp đổ của miền Trung và nỗi uất hận của những người lính một đời thiện chiến, giờ đây ngơ ngác trước những mệnh lệnh chết người.


Hàng ngồi từ trái sang: Nguyên Sa, Mai Thảo và Võ Phiến.
Hàng đứng: Nguyễn Mộng Giác, Đỗ Ngọc Yến và Hoàng Khởi Phong.

Năm 1987, để sửa soạn đón gia đình qua đoàn tụ, Nguyễn Mộng Giác thuê một căn chung cư ở Tustin. Anh cũng đón ông Võ Thắng Tiết từ Alaska về chung sống. Tưởng cũng nên nhắc lại ông Võ Thắng Tiết chính là tu sĩ Từ Mẫn, Giám đốc Nhà xuất bản Lá Bối trước kia. Sau năm 75 dù không muốn ông cũng phải trở về đời sống bình thường. Năm 1980 ông vượt biên cùng chuyến tàu với gia đình nhà văn Nhật Tiến. Khi đến Mỹ ông chọn nghề làm cua ở Alaska trong ba, bốn năm liền, rồi tích lũy vốn liếng trở về Cali dựng Nhà xuất bản Văn Nghệ. Giờ đây sau hơn ba chục năm sống rải rác khắp năm châu, giả như người Việt có một dòng văn học Việt Nam ở hải ngoại, thì phải nói ông Võ Thắng Tiết là một trong những người có công đầu. Bởi lẽ nếu không có bệ phóng của Nhà xuất bản Văn Nghệ, thì có thể giờ đây rất nhiều tác giả ở hải ngoại vẫn còn chìm trong bóng tối. Gần hai chục năm sau khi hoàn cảnh buộc phải ngưng hoạt động, Nhà xuất bản Văn Nghệ còn tồn lại một kho sách, với mấy trăm đầu sách văn chương và biên khảo. Ông Võ Thắng Tiết cũng xuất bản những cuốn sách vì nhu cầu giải trí, thị hiếu của độc giả, và đồng thời cũng là một nguồn thu không nhỏ để nuôi sống những cuốn sách văn học. Nhưng những đầu sách này được in dưới nhãn của Nhà xuất bản Đồng Văn, không phải Văn Nghệ.

Năm 1988 vợ và con gái út của Nguyễn Mộng Giác được đoàn tụ, để được toàn tâm toàn trí lo cho gia đình sum họp, Nguyễn Mộng Giác có ý định rút lui ra khỏi ban chủ biên. Đây là một biến cố lớn của tờ Văn Học, đến độ Trương Vũ từ DC phải đích thân bay về Cali, với ý định thuyết phục Nguyễn Mộng Giác vẫn để tên trong ban chủ biên, còn công việc điều hành thật sự do Cao Xuân Huy và tôi sẽ làm thay. Nhưng anh Giác quyết liệt rút ra, và đề nghị tôi thay thế cho anh Giác. Ban đầu tôi định từ chối, vì nghĩ mình không đủ uy tín. Mặc dù trước đó không lâu cuốn hồi ký Ngày N+… của tôi đã gây được một tiếng vang đáng kể trong giới cầm bút, và trước đó một năm cuốn hồi ký Tháng Ba gãy súng của Cao Xuân Huy được coi như là một hiện tượng của văn học hải ngoại. Ngoài ra tôi chưa kể tới những trói buộc về sinh kế cho bản thân tôi cùng con và hai người cháu đang ăn học ở Mỹ, đồng thời vẫn phải yểm trợ tài chánh cho toàn bộ gia đình ở quê nhà. Thời điểm đó sau khi đổi tên và thành phần chủ biên Văn Học đã đứng vững được ba năm, với gần bốn chục số báo và ý kiến của Cao Xuân Huy cũng như Trương Vũ là phải duy trì tờ Văn Học bằng mọi giá, mà nhân sự thì chỉ còn hai người có thể cáng đáng là Cao Xuân Huy và tôi. Cuối năm 1988, nếu tôi nhớ không lầm thì Văn Học số 38, thành phần chủ biên giờ đây sẽ gồm: Hoàng Khởi Phong Chủ nhiệm kiêm Chủ bút, Cao Xuân Huy Tổng thư ký, họa sĩ Khánh Trường lo phần trình bày. Nguyễn Mộng Giác, Trương Vũ và Nhật Tiến trong thành phần cố vấn.

Nhìn chung thì ba người trong ban chủ biên giờ đây đều là cựu quân nhân của QLVNCH, mà trong đó Cao Xuân Huy là sĩ quan TQLC, Khánh Trường thuộc binh chủng Nhảy Dù và đã từng ở trong Đại đội của Phan Nhật Nam là ĐĐT, và tất nhiên cả ba người lính tẩy chúng tôi không hề có ý định làm một tờ báo mà nội dung cũng như hình thức, quá nghiêm chỉnh và quý phái như hai vị tiền nhiệm vốn là nhà giáo. Ngay trong số đầu trách nhiệm, tôi cho đăng tải truyện ngắn Pháo đài trên sông Zyangty của nhà văn Trần Vũ, một cây bút mới thành danh cư ngụ ở Pháp. Nội dung truyện ngắn này quả là một trái bom, vì nó chứa đựng những pha làm tình của hai chị em ruột, sau khi vượt biên mà người chị vì muốn cứu mạng người em, đã bị dày vò, vùi dập bởi hàng chục tên hải tặc. Số kế đó Văn Học đăng tải truyện ngắn Có yêu em không của Khánh Trường. Nội dung của truyện ngắn này còn bạo liệt hơn cả truyện Trần Vũ, khi một người lính mang xác đồng đội về nhà, trong lúc gia đình lo tang lễ và quàn xác người chết ở dưới, thì trên gác xép người lính đã làm tình với em gái của người quá cố. Sau hai truyện ngắn này dư luận của giới văn nghệ rộn hẳn lên. Bản thân tôi khi chọn đăng tải hai truyện ngắn này không phải vì mối quan hệ đặc biệt với hai tác giả, mà vì đó là hai truyện ngắn hay, và tôi vốn không coi tính dục là một cấm kỵ trong văn chương.

Sau hai truyện ngắn này Nguyễn Mộng Giác mời tôi và Cao Xuân Huy đi uống cà phê, anh cũng cảnh báo chúng tôi là muốn thay đổi nội dung và hình thức tờ Văn Học thì nên từ từ, không thể gấp gáp quá e rằng sẽ gặp những phản ứng ngược từ chính những nhà văn đang cộng tác. Trong lần gặp gỡ này tôi đã giấu Nguyễn Mộng Giác vài lá thư của các văn hữu kết án nặng nề nhóm chủ biên mới. Trong phần thư tín với các văn hữu, tôi đã trả lời thẳng thừng về việc không viết tắt những chữ vốn được coi là kỵ húy trong văn chương Việt Nam. Tôi nghĩ rằng văn chương dù có ngôn ngữ riêng, nó cũng phải phần nào dung chứa ngôn ngữ đời thường, vả lại người đọc khi đọc đến những chữ viết tắt đó, ai cũng biết nghĩa đích thực của nó, thì không vì một lý do nào phải viết tắt. Tất nhiên khi quyết định đăng tải những đoạn văn này, tôi cũng đã cố gọt bớt những chữ quá thô tục, nhưng dứt khoát Văn Học không viết tắt bất cứ một chữ nào.

Để không khí nhẹ đi phần nào, hai số kế tiếp Văn Học giới thiệu những cây bút trẻ mới xuất hiện trên vòm trời chữ nghĩa và đang sinh sống ở Pháp và ở Úc, tiếc là ở Canada trong thời điểm đó không quy tụ nổi các cây bút trẻ xuất hiện đủ cho một số báo, nên không thể làm một số riêng biệt cho vùng đất này.

Cũng trong thời gian này ở trong nước, ông Nguyễn Văn Linh tuyên bố mở cửa về kinh tế và cởi trói cho văn nghệ, đã làm thay đổi bộ mặt thiếu sinh động của văn học trong nước, chuyên về minh họa. Chỉ trong một thời gian ngắn văn học trong nước trúng mùa bội thu, trên khắp các cánh đồng. Ở bất cứ bộ môn nào cũng có những thành tựu với các tác phẩm không còn viết theo chiều hướng cũ. Đã có những tác giả ở trong nước quay lưng lại với loại văn chương minh họa đã ngự trị suốt nửa thế kỷ trên những tờ báo chuyên về văn học ở trong nước. Văn Học là tờ báo đầu tiên ở hải ngoại đã lên tiếng cổ võ cho những tác phẩm này. Từ số 45 cho tới số 48, Văn Học đăng tải rải rác một số truyện ngắn và thơ được sáng tác trong buổi phôi thai, ngay khi lời tuyên bố của ông Nguyễn Văn Linh vừa ráo miệng, để sửa soạn cho số 49 và 50 là hai số chuyên đề về “văn chương phản kháng” ở trong nước. Hai số báo đó vô hình trung là mục tiêu đánh phá Văn Học, của những tờ báo coi hiện tượng này chỉ là phản kháng giả, hay là một đòn đánh phủ đầu của Nhà nước Việt Nam đối với giới cầm bút cả trong cũng như ngoài nước. Tuy Văn Học không chính thức trả lời những bài viết đầy ngôn ngữ quy chụp, nhưng một số tác giả khác không phải trong nhóm chủ trương đã gửi về Văn Học những bài viết giá trị nhận định về hiện tượng này, như là một hình thức gián tiếp trả lời cho những công kích đầy ác ý. Và nếu đúng là chế độ ra đòn như thế, thì quả thật những người cầm bút ở hải ngoại đã trúng đòn, vì cuộc tranh cãi ban đầu ngôn ngữ còn chừng mực, nhưng càng về sau càng tệ hại, đến độ giữa một số anh em cầm bút, đã có thời giao tình với nhau, sau hai số báo này đã không thể hàn gắn được, không thể ngồi chung với nhau trong bất cứ một cuốn sách nào.

Ngoài Văn Học là tạp chí văn chương chính thức công nhận hiện tượng văn chương phản kháng ở trong nước, một số các cây bút độc lập ở rải rác khắp nơi quy tụ lại thành lập Nhà xuất bản Lê Trần, mà tác phẩm duy nhất: Trăm hoa vẫn nở trên quê hương đã quy tụ được 27 nhà văn ở hải ngoại, viết về hiện tượng này, và đồng thời trích đăng tác phẩm của 69 nhà văn, nhà thơ, kịch tác gia và kịch bản điện ảnh mà tác phẩm của họ gây xôn xao trong nước trong giai đoạn đầu cởi trói cho văn nghệ này. Hầu như tất cả các cây bút chủ chốt của tờ Văn Học đều đóng góp cho cuốn sách này. Nói cho cùng đây là những bài còn dư lại của hai số chuyên đề 49 và 50, nhưng đó cũng là một hình thức trả lời cho những người đã chỉ trích Văn Học hàng năm trời ròng rã, với những luận điệu quy chụp, thậm chí còn vu khống.

Năm 1990, tôi bị thất nghiệp. Ở đây tôi xin nói rõ: về tài chánh, tờ Văn Học, hay bất cứ một tờ báo thuần túy văn chương nào, cũng lỗ. Ngoại trừ tờ Văn của Mai Thảo, được một nhà in hào phóng in báo với giá tượng trưng chỉ bằng nửa giá in thị trường, và những người hâm mộ nhà văn Mai Thảo ở rải rác khắp nơi hết lòng ủng hộ. Tất cả những may mắn đó giúp cho Mai Thảo sống khá ung dung với hai nguồn tài chánh chính là tiền già và tiền bán báo. Tờ Văn Học tuy không lời, nhưng với 700 độc giả dài hạn, lúc nào nó cũng đủ tiền in, tiền tem. Phần lời là báo bán lẻ tại những tiệm sách rải rác trên toàn nước Mỹ và Canada. Nhưng có nhiều tiệm sách không chịu thanh toán nếu như tờ báo không có người đến kiểm kê số báo tiêu thụ hàng tháng. Tại Texas có một tiệm sách suốt hai năm trời không chịu thanh toán tiền báo và sách do Văn Học phát hành, cho tới khi ông chủ bán tiệm cho người khác, thì số tiền báo đã bán được khoảng hai ngàn đô la coi như bị xù. Ở đây Văn Học lúc nào cũng mang ơn chị Thụy Khuê, người đại diện cho Văn Học ở Pháp và Âu Châu, thỉnh thoảng chị gửi cho một khoản tiền, mà tôi nghĩ cho dù có bán hết báo mà chị nhận phát hành, cũng không thể được con số đó. Dù gì chăng nữa thì tờ báo coi như hòa, nhưng thỉnh thoảng có những khoản chi bất thường ngoài vụ in ấn, thí dụ một bạn văn thường xuyên gửi bài vở cộng tác, bỗng một hôm đến chơi với anh em vài ngày, thì khoản đãi đằng cơm tây, rượu chát trong thời gian đó phải móc từ túi ông chủ nhiệm.

Tôi đã làm thợ tiện được hơn mười năm, việc thất nghiệp  ở Mỹ là chuyện bình thường, nếu chịu khó tìm tòi thế nào cũng có việc lại, nhưng nhân dịp này tôi muốn thay đổi không khí cho bản thân mình, muốn bỏ nghề và thử tìm một con đường nào gần hơn với việc viết lách, nên tôi dồn hết tiền bạc mà sở cũ trả cho tôi đâu khoảng mười ngàn, lên San Jose bỏ thêm vốn vào nhà in Lam Sơn của một ông bạn đã hoạt động được mười năm, tưởng chừng sẽ có lúc chính tôi sẽ đứng ra in tờ Văn Học. Vì quyết định dời lên phía Bắc của tôi, Văn Học lại một phen sắp xếp lại đội hình. Trương Vũ lại một phen từ thủ đô bay về, lần này Trịnh Y Thư là Chủ nhiệm kiêm Chủ bút, Cao Xuân Huy vẫn là Tổng thư ký. Trịnh Y Thư là một khuôn mặt mới của Văn Học. Anh đang du học ở Mỹ thì xảy ra vụ 75, anh có bằng MA và đang làm việc cho một công ty lớn, với số lương hậu hĩnh hơn trăm ngàn đô la một năm. Không phải vì Trịnh Y Thư khá giả mà anh bị anh em dồn anh vào chỗ phải chi tiền. Trịnh Y Thư là một người dịch rất hay, anh là một trong những người dịch Milan Kundera đầu tiên, và Đời nhẹ khôn kham là một bản dịch cực kỳ hay cuốn tiểu thuyết của nhà văn gốc Tiệp này. Thời gian này vì ở xa, tôi không có điều kiện để quan sát kỹ những thăng trầm của tờ Văn Học.

Việc làm tiệm in của tôi rút cục không khá, năm 1991 tôi một mình băng qua sa mạc Mojavie để tiến sang Texas, tìm một nơi lập nghiệp mới. Trong một năm trời tôi di chuyển qua đủ bốn thành phố lớn nhất của tiểu bang này là Houston, Dallas, San Antonio và Austin, làm đủ các nghề vớ vẩn. Khi thì đứng bán ở cây xăng, khi thì đứng bán cho các tiệm tạp hóa Stop and Go hay tiệm Seven – Eleven. Có lúc lại làm một loại việc khá giống như bốc vác cho một hãng sản xuất phụ kiện điện tử. Năm 1992 khi tôi quay trở lại Nam Cali thì mới biết Văn Học lại một lần nữa sắp xếp lại đội hình. Lần này nhà văn Nguyễn Mộng Giác quay trở lại vị trí Chủ nhiệm, Trịnh Y Thư là Chủ bút, Cao Xuân Huy không thay đổi. Một năm sau tôi chính thức đi làm báo và phụ trách trang “Văn Học Ngệ Thuật” cho tờ nhật báo Người Việt, mà lẽ ra tôi đã làm một nhân viên của tờ báo này từ số đầu tiên ra đời từ năm 1978. Tôi nhận chức biên tập viên cho tờ báo này, với mục đích có nhiều thời gian để bắt đầu viết bộ trường thiên Người trăm năm cũ. Tờ Văn Học vẫn hàng tháng có một bữa cơm chung, để các người chủ trương nhận báo mới, hàn huyên với những bạn văn từ khắp nơi về thăm Nam Cali. Bữa cơm chung này trước kia thường được tổ chức ở nhà Nhật Tiến, giờ đây nó được tổ chức tại nhà Nguyễn Mộng Giác. Đó là căn nhà anh Giác đã mua và ở cho đến khi qua đời.

Đầu thế kỷ XXI, khi internet phát triển cực độ, các trang web ra đời. Các cây viết trẻ đầy sung mãn và am hiểu tường tận kỹ năng điện toán, đã thiết lập hàng chục trang web chuyên về văn học. Đồng thời lứa độc giả văn chương của người Việt ở hải ngoại lớp thì qua đời, lớp thì làm biếng vì tuổi tác, đã khiến cho các tờ báo chuyên về văn học càng ngày càng tiến gần đến việc đình bản các tờ báo in.

Năm 2003, một buổi trưa Nguyễn Mộng Giác và Cao Xuân Huy đến chỗ tôi làm việc. Anh Giác có ý định cho tờ Văn Học đình bản, nên bàn với Cao Xuân Huy và tôi. Tôi chưa có ý kiến gì thì Cao Xuân Huy đã khẳng khái đứng ra nhận trách nhiệm chăm nom cho tờ Văn Học. Và anh đã chăm nom cho nó cho tới khi anh qua đời. Tất nhiên trong giai đoạn khó khăn này, lại chỉ có một mình xốc vác cho tờ báo, nên Văn Học trước tiên để tiết kiệm tiền in và tiền tem, thay vì phát hành mỗi tháng một số 120 trang, thì giờ đây hai tháng phát hành một số dày tồi thiểu là 200 trang và có khi lên tới 250 trang. Trong cơn ngắc ngoải của tờ báo, vẫn là Trương Vũ đã hết lòng khích lệ, yểm trợ cho Cao Xuân Huy. Số Văn Học cuối cùng sau rất nhiều lần trì hoãn đã ra đời vào cuối năm 2008. Thế có nghĩa là một mình Cao Xuân Huy xốc vác tờ Văn Học trong suốt bốn, năm năm sau cùng.

Mặc dù không ở Mỹ lúc Cao Xuân Huy qua đời, song tôi biết khá tường tận diễn tiến căn bệnh của Cao Xuân Huy. Huy phát giác ra mình có một cái u trong mắt một cách tình cờ, khi đang đánh mà chược với tôi vào năm 2007. Đang xoa bài, đột nhiên anh dụi mắt, rồi lấy tay che đi một con mắt vài lần, rồi quay qua nói với tôi: “Sao kỳ quá, con mắt phải của em chỉ nhìn thấy từ ngực bác trở xuống”. Hôm sau Huy đi khám mắt, hai ông Bác sĩ Việt cho hai định bệnh khác nhau, một ông bảo là nấm, một ông bảo là có u nhưng không biết lành hay dữ. Nguyễn Thành Quan là bạn thân của Huy và tôi từ hồi nhỏ, và đã từng là sĩ quan trợ y của QLVNCH thấy vậy chen vào: “Ngày mai mày đi khám lại ở UCLA Medical Center cho chắc ăn”. Hai ngày sau Huy cho biết các Bác sĩ của UCLA xác nhận đó là u độc, và ở đây sẽ dùng xạ trị để chữa. Tính Huy ít nói, trong hai tuần chờ đợi đi điều trị anh vẫn đến xoa mà chược tại nhà tôi, và không bao giờ có vẻ mặt tư lự hay lo âu. Có điều anh giấu tất cả mọi người là căn bệnh của anh là một căn bệnh hiếm, hàng ngàn người bị ung thư mới có một người bị ung thư gần mắt, và quan trọng hơn hết là nếu may mắn xạ trị có thể khỏi luôn, nhưng nếu không chữa được tuyệt nọc thì nó có thể chạy thẳng lên óc, hay xuống gan.

Xạ trị xong vài ngày, anh lại có mặt tại nhà tôi trong những canh mà chược. Cứ như vậy trong hơn hai năm liền một tuần hai, ba canh mà chược. Các bạn hữu của Huy ai cũng nghĩ là sức khỏe của Cao Xuân Huy hoàn toàn bình phục. Bề gì thì cũng là Trung oái TQLC, sá kể gì ba cái cancer vớ vẩn. Khoảng giữa năm 2010, sau khi tái khám định kỳ Huy cho tôi biết anh bị di căn xuống gan. Khi nói về án tử của mình, anh không hề đổi sắc, và vẫn một tuần hai cữ mà chược ở nhà tôi. Thời gian này tôi đang sửa soạn làm đám cưới cho con trai tôi. Hai bố con tôi phải về Việt Nam, vì cô vợ chưa cưới của cháu là người Việt. Đám cưới diễn ra ở Sài Gòn vào ngày 31-10 năm 2010.

Huy bắt đầu được hóa trị vào giữa tháng 7. Anh cho biết sẽ có hai đợt hóa trị, mỗi đợt là 6 tuần, mỗi tuần một liều. Bọn chúng tôi nín thở nhìn Huy mỗi tuần đi chữa bệnh. Trong sáu tuần của đợt hóa trị đầu, tôi không thấy Huy bị những phản ứng xấu như rụng tóc, xuống cân… Và đặc biệt là anh có một tinh thần bằng thép, sống hệt như những ngày trai trẻ, không hề một phút băn khoăn lo lắng về bệnh trạng của mình. Sáu tuần lễ đầu qua đi, anh vẫn nhởn nhơ cười đùa với bằng hữu. Anh vẫn tự mình lái xe lên nhà tôi chơi bài. Hết đợt đầu, anh được nghỉ một tuần để sửa soạn hóa trị đợt hai, cũng sáu tuần lễ nhưng liều lượng gấp đôi. Đầu tháng 10, tôi phải về Việt Nam, lúc đó Huy đã chịu hai liều của đợt hai, ngoài vẻ mặt bình thản bên ngoài, tôi biết anh đau đớn dữ dội bên trong, vì có lần tôi hỏi Huy về bệnh trạng trước khi tôi sẽ đi xa thì được anh cho biết: “Người ta cứ nói đau xé gan xé ruột, không ăn thua gì vì em đang đau xé từng thớ thịt, bất cứ một thớ thịt nào từ trên đầu xuống tới chân giống như bị một bàn tay vô hình xé vụn ra”. Có một điều lạ là anh không bao giờ lộ vẻ đau đớn, đặc biệt là trước mặt vợ và hai cô con gái, lúc nào anh cũng cười và còn bông đùa cho không khí trong nhà bớt căng thẳng.

Ngày 15-10 năm 2010 tôi chia tay với Huy để về Việt Nam làm đám cưới cho con trai. Trong một bữa cơm tiễn tôi đi tại nhà Nguyễn Kỳ Hùng, cả hai vợ chồng Huy cố tham dự. Lúc này anh đã không lái được xe, khi chia tay ra về tôi thấy Huy lảo đảo, nhưng anh gạt phắt tay của một người bạn có ý định dìu anh đi. Anh nói với tôi giản dị: “Khi bác sang chắc là em không còn hiện diện trên cõi đời này. Thôi chúc bạn mọi điều tốt lành”. Đáng lẽ tôi là người sẽ phải nói những lời chúc tụng sức khỏe cho Cao Xuân Huy, thì anh đã chúc tôi trước, mà qua nội dung những lời cuối của anh,  những lời chúc tụng của tôi sẽ trở thành vô nghĩa. Sau khi tôi đi khoảng mười ngày thì Huy mất. Anh sinh năm 1947, mất năm 2010 hưởng thọ 63 tuổi.

Năm 2004 Nguyễn Mộng Giác đi mổ lần đầu vì ung thư. Từ đây sức khỏe của Nguyễn Mộng Giác không còn như cũ. Năm 2008 anh về VN để chịu tang cùng an táng bà mẹ, trước khi lên máy bay về lại Mỹ anh bị đột quỵ, rồi kế đó anh bị mổ lần thứ hai vào năm 2009. Những năm cuối cùng của anh giống như là ngọn đèn sắp cạn dầu mà còn bập bùng trong gió. Gần đây anh phải vào ở trong một nhà dưỡng lão, vì không thể tự mình săn sóc cho mình, thành thử chị Diệu Chi có nhà mà hầu như không ở, cứ lẩn quẩn nơi anh nằm bệnh. Mới đây trong dịp trở lại Mỹ vào tháng 4 và tháng 5 năm 2012, tôi hai lần điện thoại để ghé thăm, nhưng không một ai bốc điện thoại trả lời. Tôi cũng lái xe đến bất ngờ hy vọng có ai ở nhà, để tôi chuyển lời thăm hỏi, song không một ai có nhà. Sau cùng việc gì đến đã đến, Anh qua đời vào ngày 3 tháng Bảy, năm 2012 tại nhà riêng, hưởng thọ 72 tuổi.

Sau cùng xin thông báo với các độc giả của tờ Văn Học:
Địa chỉ của tòa soạn hiện nay đã dời lên thiên đường từ năm 2008. Để tiện việc điều hành tờ báo, mới đây hai vị chủ nhiệm đầu tiên và sau cùng cũng đã dời về đó. Cho dù trong khi sống, nhà văn Nguyễn Mộng Giác và Cao Xuân Huy có thể làm phật lòng một số người, vì quan điểm văn chương, hay chính trị. Nhưng nghĩ cho cùng, sự khác biệt về quan điểm không bao giờ là một tội lỗi, càng không thể là một tội ác. Nghĩ cho cùng một nhà giáo hết lòng với học trò của mình, một nhà văn hết lòng với độc giả của mình, một người lính hết lòng với nhiệm vụ của mình sẽ có một chỗ ở nơi thiên đường. Nếu như thiên đường là một nơi có thật.

Sài Gòn 8 - 7 - 2012
H. K. P.