Thứ Năm, 3 tháng 1, 2008

Đại chiến lược hai hướng (tiếp theo)

Quá trình chuẩn bị Đại hội Đảng VIII chứng kiến một vòng tranh chấp mới giữa những người chống chủ nghĩa đế quốc và những người ủng hộ hiện đại hóa. Tháng 8/1995, Thủ tướng Kiệt chuẩn bị một biên bản bí mật để trình Bộ chính trị xem xét, trong đó ông trình bày một phân tích mới về “cục diện thế giới hôm nay” và gợi ý những thay đổi căn bản trong đại chiến lược của Việt Nam. Theo ông Kiệt, động lực của thế giới không còn bị chi phối bởi mâu thuẫn đối kháng giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc mà bị chi phối bởi sự đa dạng của lợi ích quốc gia, khu vực và toàn cầu và bởi tính đa cực của các mối quan hệ tương quan giữa các siêu cường. Giống ông Thạch, ông Kiệt coi phát triển theo hướng hiện đại hóa là ưu tiên cao nhất của đất nước. Ông nhấn mạnh rằng nguyện vọng lớn nhất của người Việt Nam là trở nên “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”, và kiến nghị hiểu chủ nghĩa xã hội theo cách phù hợp với mục tiêu này. Ông tiến xa tới mức thúc giục Đảng xóa bỏ nguyên tắc tổ chức “tập trung dân chủ” và xác định lại biểu ngữ của Đảng từ “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” thành “dân tộc và dân chủ”.

Bức thư của ông Kiệt gây ra sự phản ứng mạnh mẽ từ những người chống chủ nghĩa đế quốc. Trong nhiều cuộc họp kín giữa cán bộ nòng cốt của Đảng, Nguyễn Hà Phan, cùng Bí thư thường trực Đào Duy Tùng, được xem là nằm trong danh sách những người chống chủ nghĩa đế quốc sẽ thay thế ông Kiệt và ông Mười làm người đứng đầu chính phủ và Đảng, gọi quan điểm của ông Kiệt là “đi trệch khỏi chủ nghĩa xã hội”. Những người chống chủ nghĩa đế quốc cũng lưu hành trong hàng ngũ cán bộ cấp cao tài liệu nhan đề Chiến lược của Mỹ nhằm thay đổi Việt Nam sau khi bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ để buộc tội ông Kiệt, mặc dù gián tiếp, làm lợi cho các lực lượng thù địch, hay “tự diễn biến hòa bình”. Tài liệu này lập luận rằng việc Việt Nam mở cửa và hội nhập vào thế giới tư bản hoàn toàn phù hợp với một chiến lược khôn ngoan hơn của Mỹ nhằm biến Việt Nam thành một nước phi cộng sản, thân Mỹ và chống Trung Quốc bằng cách khuyến khích sự chống đối trong nội bộ đảng và bằng đầu tư nước ngoài cũng như “ngoại giao thân thiện”.

Sự phản công của những người ủng hộ hiện đại hóa khi ấy tập trung vào con người, chứ không phải là hệ tư tưởng. Tại một trong những hội nghị cuối cùng để chuẩn bị cho Đại hội VIII, cả ông Phan và ông Tùng đều bị hất ra khỏi danh sách đề cử vào ban chấp hành trung ương nhiệm kỳ tiếp theo do nhiều nỗ lực khác nhau của những người ủng hộ hiện đại hóa. Tuy vậy, các ứng cử viên của những người ủng hộ hiện đại hóa cho các vị trí hàng đầu - ông Kiệt và con trai của cố Tổng bí thư Trường Trinh và Giám đốc Học viện Tư tưởng Hồ Chí Minh Đặng Xuân Kỳ - không thể giành được sự ủng hộ của Bộ chính trị. Trong các ứng cử viên tiếp theo của những người chống chủ nghĩa đế quốc, ông Nông Đức Mạnh từ chối tranh cử còn ông Lê Khả Phiêu, người được ông Anh bảo trợ, bị xem là quá thiếu kinh nghiệm cho vị trí này. Do đó tình trạng bế tắc hình thành. Khi Đại hội Đảng VIII được tổ chức, Đại hội đã bổ nhiệm lại bộ ba lãnh đạo hiện tại. Tại Hội nghị 6 tháng 12/1997, khi việc thay đổi đội ngũ lãnh đạo đã quá hạn, những người chống chủ nghĩa đế quốc có thể đặt ông Phiêu vào vị trí Tổng bí thư - vì ông này đã thu được kinh nghiệm nhất định khi làm Uỷ viên Thường trực Bộ chính trị trong 18 tháng trước đó. Bộ ba lãnh đạo trước đó gồm ông Mười, ông Anh và ông Kiệt được bổ nhiệm làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương. Trên cương vị mới, họ tiếp tục được mời tham dự mọi cuộc họp của Bộ chính trị cũng như của Ban Chấp hành Trung ương, tại đó họ có thể lên tiếng góp ý. Vì bộ ba nắm cơ sở quyền lực lớn nhất trong tất cả các lãnh đạo của ĐCSVN, nên thế lực của họ bao trùm việc hoạch định chính sách của Việt Nam ngay cả sau khi đội ngũ lãnh đạo đã thay đổi.

Bộ ba lãnh đạo mới gồm một người ủng hộ hiện đại hóa (Thủ tướng Phan Văn Khải), một người chiết trung về hệ tư tưởng (Chủ tịch nước Trần Đức Lương) và một người chống chủ nghĩa đế quốc (Tổng bí thư Lê Khả Phiêu). Sự tồn tại của hai phe lớn trong nội bộ Đảng và nguyên tắc lãnh đạo tập thể đã đặt ông Phiêu vào tình thế mong manh. Nay người chống chủ nghĩa đế quốc phải đóng vai trò người điều tiết giữa hai phe nếu ông không muốn mất ghế của mình. Mặc dù thế giới quan của ông về cơ bản vẫn không thay đổi, nhưng ông Phiêu cố gắng xây dựng cơ sở quyền lực của mình với những người, không nhất thiết là người trung thành với việc chống chủ nghĩa Đế quốc. Hơn nữa, ông Phiêu nhất quyết hạn chế quyền lực của các Cố vấn, do đó rơi vào tình trạng mâu thuẫn nghiêm trọng với các Cố vấn. Cuối cùng, các Cố vấn đã tìm cách hạ bệ ông Phiêu tại Đại hội Đảng IX tháng 4/2001.

Tuy nhiên, việc loại ra những người chống chủ nghĩa đế quốc như ông Tùng, ông Phan và ông Phiêu không có nghĩa là những người ủng hộ hiện đại hóa có thể giành được thế trên trong đội ngũ lãnh đạo Đảng. Bên dưới sự thay đổi nhân sự trên bề mặt, cán cân quyền lực giữa những người chống chủ nghĩa đế quốc và những người ủng hộ hiện đại hóa vẫn còn nguyên. Từ đầu thập kỷ 1990, cán cân quyền lực này đã được củng cố làm cấu trúc quyền lực cơ bản trong đội ngũ lãnh đạo ĐCSVN nhờ cam kết phổ biến là giữ gìn sự thống nhất của Đảng, và cũng nhờ tác phong ra quyết định của ĐCSVN, dựa trên cơ sở lãnh đạo tập thể và đồng thuận, cũng như tác phong lựa chọn nhân sự của Đảng, ủng hộ “sự liên tục” hơn là “đổi mới”. Được hình thành những năm cuối thập kỷ 1980, cân bằng quyền lực này đảm bảo sự cân bằng nhất định tuy không bình đẳng giữa hai phe. Giống như sự pha trộn chính sách mà nó tạo ta, cân bằng quyền lực này gán cho những người chống chủ nghĩa đế quốc và những người ủng hộ hiện đại hóa các vị thế khác nhau: những người chống chủ nghĩa đế quốc bảo vệ nguyên tắc, còn những người ủng hộ hiện đại hóa thì có chiến thuật. Chính sự cân bằng quyền lực này đã ngăn chặn tất cả những người bị xem là ủng hộ hiện đại hóa cấp tiến, như ông Kiệt năm 1996 và ông Nguyễn Văn An năm 1997 và năm 2001, không nhận được vị trí cấp cao trong Đảng. Một lần nữa tại Đại hội Đảng IX, ĐCSVN đã chọn ông Mạnh, một người chống chủ nghĩa đế quốc có chừng mực hay đúng hơn là một người chiết trung, người có thể điều tiết hai phe, làm Tổng bí thư tiếp theo.

Như Brantly Womack chỉ ra, việc kháng lại sự vượt ra ngoài cơ sở đồng thuận cấp trung là do sự tương tác của ba yếu tố. Một mặt, cải cách chứng tỏ là chính sách kinh tế thành công nhất trong lịch sử của ĐCSVN, nhưng mặt khác lại có nhiều hậu quả không mong muốn. Ngoài ra, sự thành công của cải cách và môi trường quốc tế yên bình đã làm mất đi tâm trạng khủng hoảng lớn mà đã chiếm ưu thế hồi cuối thập kỷ 1980 và đầu thập kỷ 1990. Do vậy, Việt Nam đã bị mắc kẹt trong một “trạng thái bất động về cải cách”, mà hậu quả của nó là “sự lãnh đạo theo lối mòn”. Do vậy, không có sự đổi mới đáng kể nào trong chính sách đối ngoại diễn ra kể từ cuối thập kỷ 1980.

Việc đánh giá tình hình thế giới cũng như các chỉ thị về chính sách đối ngoại được thông qua tại Đại hội IX dựa trên cùng cơ sở như những chỉ thị đã được phê chuẩn tại Đại hội VII và VIII. Tất cả các chỉ thị này đều mô tả một thế giới trong đó cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, tại tất cả mọi nước trên thế giới và khơi mào cho một quá trình quốc tế hóa và toàn cầu hóa, là một trào lưu thế giới mạnh mẽ. Đồng thời, các chỉ thị này cũng công nhận rằng thế giới đang trong quá trình chuyển đổi từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Điều này có nghĩa là “những mâu thuẫn căn bản” do hoạt động của chủ nghĩa tư bản gây ra vẫn tồn tại và để giải quyết những mâu thuẫn này, “các cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc” đang được tiến hành một cách mạnh mẽ. Quan hệ quốc tế được đánh dấu bởi cả hợp tác và đấu tranh trong bối cảnh này. Về chính sách đối ngoại của Việt Nam, mục đích của chính sách được xác định là kết hợp việc duy trì môi trường quốc tế yên bình với việc tạo lập các tập hợp có lợi cho phát triển kinh tế xã hội trong nước và quốc phòng với đóng góp tích cực vào “cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” - những từ chuẩn mực trước đây của Việt Nam về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản đế quốc.

Định hướng địa chính trị và quan hệ đối ngoại chính

Để triển khai các nhiệm vụ nói trên, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên đã tuyên bố trong một cuộc họp báo, là một phần trong Đại hội IX, rằng “Việt Nam sẽ tiếp tục coi trọng việc tôn trọng và phát triển các quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, láng giềng và các nước mạnh”. Tiếp đó ông nói thêm “Việt Nam sẽ củng cố và mở rộng quan hệ với các nước đang phát triển, độc lập dân tộc và bạn bè truyền thống. Đồng thời Việt Nam sẽ đa dạng hóa quan hệ với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế và khu vực”. Danh sách của ông Niên, theo thứ tự được nêu, phản ánh rõ ràng ưu tiên trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển từ khi bắt đầu đổi mới, định hướng địa chính trị của Việt Nam đã có nhiều thay đổi trong thứ tự ưu tiên này.

Năm 1987 - 1988, Việt Nam vẫn định hướng mạnh theo Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu. Nhưng Nghị quyết 13 sớm khởi xướng một sự “đa dạng hóa” định hướng quốc tế của Việt Nam. Năm 1989, tỷ lệ các bài báo về châu Á Thái Bình Dương, Đông Nam Á và các nước tư bản trong khu vực (không tính Mỹ) xuất hiện trên tạp chí Cộng sản của Đảng, so với những bài báo về Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là 4: 5, trong khi đó năm 1988, tỷ lệ này là 1:13. Điều này cho thấy sự chuyển biến mạnh của sự chú ý của Hà Nội, chuyển từ Đông Âu sang châu Á Thái Bình Dương. Tuy nhiên, xu hướng này bị ngưng lại đầu năm 1990, bề ngoài là để phản ứng trước sự sụp đổ của các chế độ cộng sản ở Đông Âu. Từ đó cho đến cuối năm 1991, tờ báo này không xuất bản bài báo nào về châu Á Thái Bình Dương, nhưng dành chỗ chính cho việc lên án chủ nghĩa đế quốc và Mỹ, cũng như bày tỏ tình đoàn kết với những người cộng sản ở Đông Âu.

Thời kỳ từ năm 1989 đến năm 1991 là quãng thời gian quan trọng hơn hẳn, khi Việt Nam đang tìm kiếm một định hướng địa chính trị mới. Những người ủng hộ hiện đại hóa dựa vào sự hội nhập khu vực vào châu Á Thái Bình Dương đồng thời tìm cách bình thường hóa quan hệ với “hai nước lớn” - Trung Quốc và Mỹ - một cách cân bằng. Tuy vậy, những người chống chủ nghĩa đế quốc thay vì đó lại ủng hộ một “giải pháp đỏ” - liên minh với Trung Quốc chống Mỹ và phương Tây. Theo Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phát biểu tại cuộc họp ngày 10/4/1990 của Bộ chính trị “Việt Nam và Trung Quốc là hai nước xã hội chủ nghĩa chống lại âm mưu của chủ nghĩa đế quốc nhằm xóa sổ chủ nghĩa xã hội. [Chúng ta] phải cùng nhau chống chủ nghĩa đế quốc”. Theo Thứ trưởng Ngoại giao khi ấy là ông Trần Quang Cơ, giải pháp đỏ này giành được thế trên trong Bộ chính trị tại Hà Nội từ khoảng tháng 3/1990. Nỗ lực của Việt Nam nhằm khôi phục quan hệ với Trung Quốc trong năm 1990 - 1991 được một số người ủng hộ hiện đại hóa xem là một nỗ lực nhằm “đa dạng hóa” quan hệ quốc tế của Việt Nam theo tinh thần của chính sách đối ngoại “đa dạng hóa và đa phương hóa”. Nhưng như ông Anh giải thích vào năm 1990, động cơ thực sự thúc đẩy những người như Tổng bí thư Linh, Bộ trưởng Quốc phòng Anh, và đa số ủy viên Bộ chính trị xúc tiến việc thiết lập lại quan hệ hữu nghị với Trung Quốc là như sau:

Mỹ và phương Tây muốn khai thác cơ hội này [sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh] để nhổ tận gốc chủ nghĩa cộng sản. Họ [Mỹ] đang trừ tiệt [chủ nghĩa cộng sản] ở Đông âu. Họ đã tuyên bố nhổ tận gốc chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng là đây là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Chúng ta phải tìm kiếm [một] đồng minh. Đồng minh này chính là Trung Quốc.

Tuy nhiên, đề nghị thiết lập một liên minh chống chủ nghĩa đế quốc của Việt Nam đã bị Trung Quốc từ chối thẳng thừng nhiều lần. Trong chuyến viếng thăm của Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt tại Bắc Kinh tháng 11/1991 , khi quan hệ giữa hai nước và hai đảng đã chính thức bình thường hóa, Trung Quốc đã trả lời Việt Nam rằng Trung Quốc và Việt Nam có thể là “đồng chí nhưng không phải là đồng minh”. Với việc đề nghị của những người chống chủ nghĩa đế quốc đã bị mất uy tín, chương trình nghị sự của những người ủng hộ hiện đại hóa đã giành lại được đà. Tháng 3/1992, tạp chí Cộng sản của Đảng xuất bản bài báo nhan đề Việt Nam trong xu thế chung của châu Á Thái Bình Dương của Thứ trưởng Ngoại giao Đinh Nho Liêm. Ông Liêm không công khai xác định phạm vi địa lý của khu vực mà nhắc tới “Ấn Độ, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, In-đô-nê-xia, và các nước ASEAN khác” là các nước trong khu vực. Ông lập luận rằng vì mục đích an ninh quốc gia và phát triển kinh tế xã hội, Việt Nam không thể không coi quan hệ của mình với khu vực châu Á Thái Bình Dương là một ưu tiên trong chính sách ngoại giao. Thừa nhận rằng việc này khá mới lạ đối với chính sách đối ngoại của Việt Nam, ông quả quyết rằng “việc xây dựng và bảo vệ Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa không mâu thuẫn với lợi ích của các nước trong khu vực”. Ông Liêm cũng khẩn thiết yêu cầu có “tư duy thực sự mới về chính sách đối nội và đối ngoại” và xác định phát triển kinh tế xã hội là mục tiêu cao nhất của đất nước. Ông kết luận “Theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn, dân tộc chúng ta sẽ xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, trở thành một thành viên xứng đáng trong khu vực châu Á Thái Bình Dương yên bình, độc lập và phát triển”. Năm sau, tờ báo này xuất bản êu cường và các nước trong khu vực là hai “đ�ạnh Cầm, trong đó ông chỉ ra rằng quan hệ với các siêu cường và các nước trong khu vực là hai “định hướng lớn” trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Ông cũng nhấn mạnh rằng Đông Nam Á sẽ là chiếc “cầu” đưa Việt Nam hội nhập với thế giới. Vài tháng sau, ông Vũ Khoan, một trong các phó của ông Cầm ở Bộ Ngoại giao, lặp lại lời của ông Cầm, trong tạp chí Cộng sản của Đảng với một bài báo nhan đề Châu Á Thái Bình Dương: Định hướng chính trong chính sách đối ngoại của nước ta. Sau năm 1995, khi Việt Nam trở thành thành viên ASEAN, một chủ thể ASEAN mới được bổ sung vào định hướng châu Á Thái Bình Dương của nước này.

Mặc dù có chủ thể ASEAN chưa bao giờ vững chắc hơn, nhưng Việt Nam không coi quan hệ với ASEAN là định hướng địa chính trị quan trọng nhất của mình. Trong kế hoạch về nơi nương tựa trên thế giới của Việt Nam, xuất phát từ sự chồng chéo của hai đại chiến lược, ASEAN là chiếc cầu nối chứ không phải là một điểm đến. Do vậy, sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam vẫn tìm kiếm một cơ sở mới cho quan hệ ngoại giao của mình. Sau khi ông Lê Khả Phiêu trở thành Tổng bí thư vào cuối năm 1997, Việt Nam bắt đầu thực hiện chính sách quan hệ mật thiết hơn với Trung Quốc. Năm 1999, số lần các chuyến viếng thăm cấp cao giữa hai nước tăng vọt lên 80, với việc bản thân ông Phiêu tới thăm Trung Quốc. Đầu năm 2000, ông lại thăm Trung Quốc lần nữa để tham dự một cuộc họp không được công khai với Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân. Các nguồn tin không chính thức từ Hà Nội đưa tin ông Phiêu gặp ông Giang với đề nghị tổ chức họp thường niên giữa các nhà lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc. Nỗ lực này bề ngoài vẫn không thành công, nhưng vào giữa năm 2000, một phái đoàn Việt Nam do nhà lý luận chính của Việt Nam, Nguyễn Đức Bình, làm trưởng đoàn đã tới Trung Quốc tham dự “hội nghị chuyên đề về hệ tư tưởng”, buổi tham vấn đầu tiên của các nhà lý luận chính của hai nước kề từ năm 1975.

Cho dù tham vọng cá nhân của ông Phiêu là gì, thì nếu đề nghị này của ông được chấp nhận, Việt Nam sẽ được nâng thành một “cực” trong trật tự thế giới đa cực của Trung Quốc. Trong khi đó, Chủ tịch nước Trần Đức Lương, người thừa kế từ người tiền nhiệm, trọng trách về các vấn đề quốc phòng, nội vụ, và ngoại giao trong Bộ chính trị, cũng đang theo đuổi giải pháp riêng của mình. Cụ thể là ông Lương được cam đoan lần nữa trong chuyến viếng thăm năm 1998 tới Mát-xcơ-va rằng “Nga sẽ vẫn coi trọng quan hệ với Việt Nam, coi Việt Nam là đối tác chiến lược ở khu vực Đông Nam Á và quan hệ Nga-Việt là một cực trong thế giới đa cực”. Việc lập lại quan hệ hữu nghị Nga-Việt lên đến đỉnh điểm trong tuyên bố về “quan hệ đối tác chiến lược” giữa hai đồng minh trước đây, trong chuyến viếng thăm lần đầu tiên trong lịch sử của nhà lãnh đạo tối cao của Nga tới Việt Nam vào năm 2001.

Tuy nhiên, thế giới đã thay đổi vĩnh viễn kể từ sau sự kiện ngày 11/9/2001. Diễn biến trong quan hệ giữa các siêu cường sau đó đã làm cho các nhà lãnh đạo ở Hà Nội nhận thức rằng Mỹ không có quan điểm bình đẳng với các cường quốc lớn khác. Cùng với triển vọng về một thế giới đa cực, hy vọng của Việt Nam sẽ được Trung Quốc hoặc Nga nâng lên thành một cực trong trật tự thế giới đa cực nào đó đã trở nên xa xăm hơn bao giờ hết. Tháng 7/2003, Hội nghị 8 Ban chấp hành Trung ương IX đã thông qua một nghị quyết về "”Chiến lược phòng vệ trong nước trong tình hình mới”, trong đó Việt Nam từ bỏ mệnh đề ý thức hệ trong việc phân biệt “đối tác” (về mặt hợp tác) và “đối tượng” (trong chiến đấu) trong quan hệ quốc tế của mình. Việc này đã mở đường cho việc tăng cường tiếp xúc với Hoa Kỳ, đáng chú ý là chuyến viếng thăm lần đầu tiên trong lịch sử của Bộ trưởng Quốc phòng Phạm Văn Trà tới Washington và việc tàu chiến của Mỹ lần đầu tiên cập cảng nước Việt Nam cộng sản, cả hai sự kiện này đều diễn ra trong tháng 11/2003. Tuy nhiên, liệu những diễn biến mới trong quan hệ Mỹ-Việt trong thời kỳ sau sự kiện ngày 11/9 có lên đến mức trở thành một định hướng địa chính trị mới trong chính sách đối ngoại của Việt Nam hay không vẫn còn chờ xem.

Quan hệ của Việt Nam với các nước khác trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh dường như đã theo một số chiến lược địa chính trị ở nhiều mức độ khác nhau. Tùy thuộc vào tình hình tạm thời, tuy nhiên, các chiến lược địa chính trị được định hình bởi các đại chiến lược, tạo cho các chiến lược này mục đích và nguyên tắc. Mục đích của đại chiến lược chống chủ nghĩa đế quốc là chống chủ nghĩa đế quốc Mỹ, và nguyên tắc là “khai thác các mâu thuẫn”. Có sự thay đổi chiến thuật trong chiến lược này trong “những năm 1990 dài dằng dặc”. Trong nửa đầu thập kỷ này, mâu thuẫn chính được cho là giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc, thể hiện về mặt địa chính trị qua căng thẳng trong quan hệ Trung-Mỹ tiếp sau sự kiện Thiên An Môn. Nói theo ngôn ngữ quan hệ quốc tế truyền thống, khi ấy Hà Nội đã cố cân bằng Washington bằng cách lôi kéo Bắc Kinh. Nhưng tình hình đã thay đổi lớn trong nửa cuối thập kỷ này. Quan hệ Trung-Mỹ đã được phục hồi. Đồng thời, một mâu thuẫn mới đã xuất hiện giữa “đơn cực hóa” trật tự thế giới do Mỹ dẫn đầu và phong trào đối lập “đa cực hóa”. Nhận thức rằng đây là mâu thuẫn chính trong thời điểm đó của chủ nghĩa đế quốc Mỹ, Việt Nam đã sẵn sàng gia nhập Trung Quốc, Nga và Pháp, các cường quốc lớn ủng hộ một trật tự thế giới “đa cực” bằng nhiều nỗ lực nhằm chống lại sự “đơn cực hóa”.

Mục đích của đại chiến lược hiện đại hóa là nhằm đưa Việt Nam thành một nước công nghiệp và bắt kịp các nước phát triển trong khu vực lân cận. Nguyên tắc được xây dựng nhằm đạt được mục tiêu này là "tận dụng" các nguồn lực và xu thế bên ngoài nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển trong nước. Theo nguyên tắc này, những người ủng hộ hiện đại hóa cố gắng xây dựng quan hệ thân thiết với các trung tâm tài chính - công nghệ thế giới, cụ thể là Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước công nghiệp tiên tiến khác ở châu Âu và châu Á, là các nguồn tiềm năng cả về vốn và công nghệ. Đồng thời, những người ủng hộ hiện đại hóa cũng khuếch trương sự tham gia của Việt Nam vào hợp tác khu vực và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, trong đó ASEAN đóng vai trò quyết định. Trong báo cáo năm 1995 trình lên.Bộ chính trị, ông Kiệt nhấn mạnh đến việc Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN, một khuôn khổ hợp tác với Liên minh châu Âu, và việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ như "tập hợp lực lượng" mới của Việt Nam. Đồng thời, ông bác bỏ khả năng tập hợp lực lượng trên cơ sở ý thức hệ với Trung Quốc hoặc Triều Tiên. Đáng lưu ý là ông Kiệt đãkhông đề cập đến quan hệ Trung-Việt, được khôi phục trước tiên, như một trụ cột nơi nương tự của Việt Nam trên thế giới.

Sự chồng chéo của hai đại chiến lược tạo cơ sở cho ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, và sự pha trộn hai đại chiến lược này xác định chính sách của Việt Nam đối với các cường quốc nước ngoài. Trong khuôn khổ này, Mỹ vừa được cho là nguồn trung tâm phá hoại - "kẻ thù cơ bản" - vừa là nguồn vốn và công nghệ tiềm năng có giá trị nhất - "đối tác lớn nhất". Thái độ của Việt Nam đối với Hoa Kỳ do vậy còn nước đôi. Thái độ này được đánh dấu bằng cả sự ngưỡng mộ lẫn sự thù địch. Giám đốc Viện Kinh tế Thế giới Hà Nội, cũng là một cố vấn cho ông Đỗ Mười, phân biệt bốn khả năng tiếp cận đối với siêu cường này trong cái mà ông gọi là một "thế giới đa tâm". Khả năng thứ nhất là liên minh, khả năng thứ hai là quan hệ đối tác chiến lược, thứ ba là kết hợp có chọn lọc giữa hợp tác và đấu tranh và thứ tư là đối đầu. Ông đánh giá rằng ngay hiện tại rất hiếm có nước nào vẫn tiếp tục chọn giải pháp thứ tư, và dường như nói bóng gió đến Nhật Bản đại diện cho giải pháp thứ nhất, Trung Quốc đại diện cho giải pháp thứ hai và Việt Nam đại diện cho giải pháp thứ ba.

Nhận thức của Việt Nam về Trung Quợi giải quyết cùng một vấn đề về Trung Qlược. Tuy nhiên, cả hai đại chiến lược đều phải giải quyết cùng một vấn đề về Trung Quốc. Vấn đề này gồm có sức mạnh ngày càng lớn của Trung Quốc, có thể dẫn đến sự quyết đoán và sức ép, và các xung đột về lãnh thổ của nước này với Việt Nam, đặc biệt là ở vùng Biển Đông. Tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh là một vấn đề lớn đối với những người Việt Nam chống đế quốc, vì họ coi Trung Quốc là đồng minh chiến lược. Tuy nhiên, họ giải quyết vấn đề này bằng cách chỉ ra Hoa Kỳ như "kẻ thù nguy hiểm, trực tiếp cơ bản và lâu dài", nhờ vậy chuyển vấn đề Trung Quốc thành mối đe đọa thứ cấp. Trái lại, đối với những người ủng hộ hiện đại hóa Việt Nam, Trung Quốc là mối đe dọa nhiều hơn là cơ hội. Nhiều người ủng hộ hiện đại hóa Việt Nam không ưa Trung Quốc và ủng hộ phương Tây. Họ thấy trong sự quyết đoán của Trung Quốc về các vấn đề lãnh thổ và biên giới có mối đe dọa lớn hơn so với các sức ép của phương Tây đòi dân chủ và nhân quyền.

Đại chiến lược tạo khuôn khổ để nhận dạng tác động tới lựa chọn chính sách đối ngoại. Trái lại, những người chống chủ nghĩa đế quốc sẵn sàng thỏa hiệp với Trung Quốc, như họ đã từng làm ở Hội nghị thượng đỉnh Thành Đô (1990) và các hiệp định về đường biên giới năm 1999 và 2000, nhưng vẫn cứng rắn trong việc xử lý vấn đề với Mỹ, như thể hiện rõ ràng trong việc họ phong tỏa hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ năm 1999. Điều ngược lại thì đúng đối với những người ủng hộ hiện đại hóa. Họ sẵn sàng thỏa hiệp trong vấn đề thương mại với Washington trong khi lại trì hoãn việc phê chuẩn hiệp định đường biên giới về Vịnh Bắc Bộ với Bắc Kinh. Điều này là do những người chống chủ nghĩa đế quốc gắn bản thân với chế độ chứ không phải là với đất nước hiểu theo nghĩa lãnh thổ, còn những người ủng hộ hiện đại hóa thì lại gắn bản thân với quốc gia theo ý nghĩa truyền thống chứ không phải là với chế độ theo kiểu Xta-lin-nít. Những người ủng hộ hiện đại hóa như ông Thạch hay ông Kiệt đang thúc đẩy nhằm thay đổi bản sắc của chế độ trong khi vẫn giữ nguyên tên gọi của nó. Họ lo ngại về lãnh thổ đất nước nhiều hơn là về các nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản.

Mặc dù có những điểm tương đồng nổi bật về thế giới quan giữa những người ủng hộ hiện đại hóa của Việt Nam và Trung Quốc, nhưng những người ủng hộ hiện đại hóa hàng đầu của Việt Nam như ông Thạch và ông Kiệt lại không coi Trung Quốc là mô hình phát triển. Cơ sở của họ là: Nếu có nước nào đó thành công hơn Trung Quốc, thì tại sao lại phải đi theo Trung Quốc? Nếu Trung Quốc đang theo một nước nào khác, thì tại sao lại không theo ngay chính nước mà Trung Quốc đang đi theo? Do đó, mô hình “tự nhiên” của họ là các “con hổ” tư bản châu Á. Thực ra, mô hình của Thủ tướng Kiệt chính là Hàn Quốc và Nhật Bản. Sự cải cách khu vực nhà nước của ông Kiệt năm 1990 - 1991 là nhằm thành lập các công ty lớn giống với các chaebols zaibatsus. Mô hình này phù hợp với hệ tư tưởng của ông. Ông muốn có các tập đoàn hùng mạnh để dẫn dắt nền kinh tế Việt Nam trên thị trường thế giới. Đối với ông, các mô hình của Hàn Quốc và Nhật Bản với các tập đoàn lớn có sức hấp dẫn hơn so với các mô hình của Xing-ga-po hay Đài Loan với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng tất cả điều đó đã bị tấn công mạnh mẽ với cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Trong những năm 2000, với việc quan hệ Trung - Việt đang trong thời kỳ bình thường, những người ủng hộ hiện đại hóa không hề sợ việc đi theo con đường của Trung Quốc và họ đang nhìn vào Trung Quốc để rút ra bài học.

Các cách khác để đối phó với Trung Quốc được xây dựng trong hai đại chiến lược. Đại chiến lược chống chủ nghĩa đế quốc đưa ra khả năng là tình hữu nghị với Trung Quốc có thể giảm bớt sức ép của Trung Quốc và giảm sự quả quyết của họ. Đại chiến lược hiện đại hóa đưa ra hai phương pháp tiếp cận khác nhau đối với vấn đề Trung Quốc. Một cách tiếp cận là Trung Quốc sẽ được cân bằng hoặc bị cản trở bởi sự “tập trung lực lượng” của Việt Nam từ các đối tác hùng mạnh và có ảnh hưởng khác. Cách tiếp cận khác, có thể được gọi là “giăng bẫy”, dựa trên cơ sở phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và mạng lưới hợp tác khu vực dày đặc. Theo một quan chức bộ ngoại giao Việt Nam giải thích “Quan hệ Trung - Việt sẽ ăn khớp nhịp nhàng với nhau trong mạng lưới lợi ích kinh tế và chính trị đan xen của khu vực lớn hơn nhiều. Đây là một sự dàn xếp trong đó bất kỳ nước nào muốn xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đều được xâm phạm tới lợi ích của các nước khác nữa”. Tuy nhiên, mỗi chiến lược trong ba chiến lược này đều có sự bất lợi riêng. Đối với chiến lược thứ nhất, Trung Quốc từ chối tham gia vào bất kỳ liên minh chính thức nào với Việt Nam và vẫn cứng rắn khi giải quyết tranh chấp về lãnh thổ. Đối với chiến lược thứ hai, không chắc chắn là các cường quốc khác, trong đó Hoa Kỳ là nước có tiềm lực nhất, sẽ nghiêng về Việt Nam hơn nếu Việt Nam bị Trung Quốc đe dọa thực sự. Đối với chiến lược thứ ba, còn tùy thuộc vào việc Trung Quốc có để mình bị “mắc lưới” trong sự bố trí của khu vực hay không. Liệu sự kết hợp nào đó của ba chiến lược này có thể trung hòa sự bất lợi của mỗi chiến lược hay không? Tình hình trong những năm 2000 dường như thuận lợi cho một triển vọng như vậy. Trong thập kỷ này, quan hệ Trung - Việt đã tiến vào một thời kỳ bình thường. Việc Chủ tịch nước Giang Trạch Dân tặng “16 chữ” (láng giềng thân thiện, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài và hướng tới tương lai) trong chuyến thăm của ông Phiêu tới Trung Quốc năm 1999 và phương châm “bốn tốt” (láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt và đối tác tốt) cũng của ông Giang trong chuyến viếng thăm của ông tới Việt Nam năm 2002, đã tạo khuôn khổ cho quan hệ giữa hai nước. Khuôn khổ này là dấu hiệu cho phe thân Trung Quốc trong giới lãnh đạo ở Hà Nội thấy một liên minh với Bắc Kinh trên cơ sở ý thức hệ không được chào đón, đồng thời là dấu hiệu cho những người không ưa Trung Quốc thấy họ phải tránh phản kháng “láng giềng tốt” ở phía Bắc. Do đó, trong những năm 2000, các phe phái đấu đá nhau trong giới lãnh đạo ở Hà Nội có thể thương lượng các phương pháp tiếp cận khác nhau của họ về Trung Quốc trên nền tảng bình thường hóa vững chắc, chứ không phải như trong thập kỷ 1990, trong một khe hẹp giữa “giải pháp đỏ” ở một phía và phe đối lập ở phía bên kia, làm cho phản ứng của Việt Nam với Trung Quốc chịu ảnh hưởng của sự đấu đá giữa các bè phái, chứ không phải là sự cân nhắc thận trọng khôn ngoan, và do vậy không phải tối ưu.

Chính sách của Việt Nam đối với các nước công nghiệp tiên tiến ở phương Tây ngoài Mỹ cũng như đối với ASEAN chủ yếu được định hình bởi đại chiến lược hiện đại hóa nhưng chịu tác động lớn của chiến lược chống chủ nghĩa đế quốc. Do vậy, Hà Nội giang tay hợp tác đồng thời theo dõi một cách ngờ vực các nước này, mà hoặc là các nước tư bản hoặc là cựu đồng minh của Mỹ. Việc ưu tiên hóa các nước trong những nhóm này tuy nhiên lại chịu sự chi phối của đại chiến lược hiện đại hóa. Một hệ thống thứ tự không chính thức được áp dụng vào quan hệ của Việt Nam với các nước trong những nhóm này, phản ánh quy mô, mức độ công nghiệp hóa, và sự gần gũi về không gian khác nhau với Việt Nam. Thực ra, các quan hệ quan trọng nhất là với các "cường quốc lớn” Nhật Bản và Pháp và “các nước láng giềng” ASEAN và Hàn quốc. Tuy nhiên, có sự thay đổi cơ bản trong quan hệ giữa Việt Nam và các nhóm này. Tiếp sau việc bình thường hóa với Trung Quốc, quan hệ của Việt Nam với các nước này cũng đã đạt được mức độ bình thường vào đầu thập kỷ 2000. Một tuyên bố chung về "quan hệ đối tác toàn diện trong thế kỷ 21” với Hàn Quốc đã được công bố năm 2001. Năm sau, Việt Nam và Nhật Bản đạt được khuôn khổ quy phạm cho quan hệ giữa hai nước trong thế kỷ 21. Sau đó, các khuôn khổ về hợp tác lâu dài với In-đô-nê-xia, Thái lan, Xing-ga-po và Ma-lai-xia cũng được ký kết. Từ bạn bè, trước thường được dùng riêng để chỉ các nước “bạn bè truyền thống” như An-giê-ri hay Ấn Độ bắt dầu được dùng cho một số nước ASEAN và phương Tây. Hệ thống thứ tự không chính thức đề cập trên đây vẫn còn nguyên. Thực ra, hiệp định khung với Nhật Bản được Tổng bí thư Nông Đức Mạnh ký kết, các hiệp định với Hàn Quốc và In-đô-nê-xia do Chủ tịch nước Trần Đức Lương ký kết, còn Thủ tướng Phan Văn Khải, người đứng hàng thứ ba trong danh pháp của ĐCSVN, thì ký kết các hiệp định khác.

Kết luận

Chính sách đối ngoại của Việt Nam từ khi đổi mới không được chỉ đạo bởi một hệ thống tư duy thống nhất, mà là kết quả của sự tác động lẫn nhau giữa hai đại chiến lược khác nhau, mỗi đại chiến lược hình thành trên cơ sở tầm nhìn khác biệt về thế giới. Chính sự xung đột và thỏa hiệp, và sự pha trộn và phân công lao động giữa hai đại chiến lược đã dựng nên quan hệ của Việt Nam với thế giới bên ngoài cũng như việc đặt thứ tự ưu tiên về các nước và các vấn để. Để làm sáng tỏ điểm chính của câu chuyện, hãy để chúng tôi ẩn dụ chính sách đối ngoại như một chuyến đi và nhà nước như một con tàu. Như vậy, con tàu Việt Nam có hai thuyền trưởng, với hai tấm bản đồ khác nhau và hai điểm đến khác nhau. Những đích này bản thân không xung khắc nhau. Nhưng trong tình hình khi các nguồn lực bên ngoài then chốt cần thiết cho hiện đại hóa trong nước được tập trung trong tay các cường quốc tư bản lớn nhất, thì các mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc lại xung đột với các mục tiêu của hiện đại hóa. Do vậy, hai thuyền trưởng phải thương lượng lại đích đến của mình: Thực ra, không ai trong số họ chịu từ bỏ mục tiêu của mình, nhưng họ nhất trí về một định hướng được thỏa hiệp. Do đó, con tàu không tiếp cận được bờ biển nào mà các thuyền trưởng muốn nó đáp vào. Tình thế tiến thoái lưỡng nan của các thuyền trưởng là nếu họ muốn đạt được mục tiêu tương ứng của mình thì họ phải chia thủy thủ đoàn (giả sử là việc chia con tàu không phải là một giải pháp), nhưng nếu thủy thủ đoàn của học bị chia nhỏ ra, thì có khả năng sẽ có bên thứ ba chiếm lĩnh vai trò lãnh đạo.

Do vậy, việc hoạch định chính sách của Việt Nam mang đặc điểm đồng thuận chính thức và chia rẽ bè phái không chính thức. Đại chiến lược là một khuôn mẫu trong đó thế giới quan, bản sắc và lợi ích được kết nối và củng cố. Nhưng vì cả việc chống chủ nghĩa đế quốc và mở cửa ra với thế giới đều là một phần chính thống công khai, nên hai chiến lược này ít được dùng làm định hướng chính sách mà nhiều hơn làm “lá cờ được dán trên mớn nước chung để củng cố các bè phái bên dưới”. Sự chồng chéo của hai mô hình này mang lại cái mà những người ủng hộ hiện đại hóa xem là đánh mất mô hình. Điều này phản tác dụng đối với mục đích của hiện đại hóa nhưng thực ra lại phục vụ chương trình ngầm của phe chống chủ nghĩa đế quốc . Khi kẻ thù không đợi trời chung (Mỹ) vẫn còn rất mạnh và đồng chí mạnh nhất (Trung Quốc) vẫn tiếp tục từ chối hợp tác trong các vấn đề chiến lược, thì việc duy trì quan hệ rộng rãi nhưng hời hợt với các chủ thể khác trên thế giới là cách tốt nhất để bảo vệ mình và chờ cơ hột tốt.

Tuy nhiên chính sách phải đối đầu với thực tiễn. Thực tiễn là Bắc Kinh nhiều ấn dứt khoát từ chối đề nghị của Hà Nội về một liên minh hình thành trên cơ sở ý thức cho thấy sức ép mạnh đòi hỏi có sự thay đổi căn bản trong mô hình chống chủ nghĩa đế quốc. Đồng thời, sức ép này cũng ảnh hưởng tới cân bằng quyền lực giữa hai đại chiến lược chống chủ nghĩa đế quốc và hiện đại hóa. Tóm lược mâu thuẫn của hai đại chiến lược này là về vấn đề: Cái gì quan trọng hơn - lợi ích quốc gia hay lợi ích giai cấp? Từ năm 1990 đến năm 1997, cuộc tranh luận bị chi phối bởi những người ủng hộ đấu tranh giai cấp. Bất kỳ ai lập luận ủng hộ tầm quan trọng hơn hay sự trội hơn của lợi ích quốc gia đều phải làm một cách bí mật. Một ví dụ là bức thư của ông Kiệt trình lên Bộ chính trị. Tuy nhiên, “chiều hướng của cuộc chiến đấu” bắt đầu đổi chiều vào năm 1998. Từ cuối năm 1998, luận điểm về tầm quan trọng hơn hay sự trội hơn của lợi ích quốc gia trở nên có ảnh hưởng át trội hơn trong cuộc tranh luận. Một trường hợp thú vị - và có tính chứng minh - là Quang Cận, người đã từng là chiến sĩ chống chủ nghĩa đế quốc trong thời kỳ trước. Tháng 7/1999 và tháng 8/2000, rõ ràng dự báo được Đại hội IX, ông đã đưa ra hai bài báo đăng trên tạp chí Cộng sản của Đảng, thúc giục Đảng “giương cao ngọn cờ dân tộc”. Hơn nữa, ông Cận lập luận rằng mâu thuẫn căn bản nhất nằm giữa sự hiện đại và lạc hậu. Xin nhớ lại rằng đây là hai ý tưởng cốt lõi trong thư của ông Kiệt năm 1995.

Từ bên ngoài, những thay đồi trong ưu tiên địa chiến lược của Mỹ tiếp sau “cuộc chiến chống khủng bố” có thể tạo thuận lợi hay thậm chí có thể tạo điều kiện cho một số thay đổi căn bản trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Lãnh đạo ở Hà Nội có thể phải tin rằng do mối lo ngại chính là về chủ nghĩa khủng bố, nên Mỹ sẽ “từ bỏ tham vọng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội của mình”. Hơn nữa, Washington có thể để Hà Nội có được vị trí cao hơn nhất định trong bàn cờ thế giới của mình. Trong những tình hình này - vẫn mang tính giả thuyết, một đại chiến lược mới và mạnh mẽ của Việt Nam có thể xuất hiện; mạnh mẽ vì đại chiến lược này có khả năng mang lại câu trả lời rõ ràng và tương quan cho cả bốn vấn đề quan trọng nhất mà người nào điều hành Việt Nam cũng phải giải quyết, cụ thể là duy trì chế độ, phát triển kinh tế, chỗ đứng của quốc gia trên thế giới, và Trung Quốc.

(Hết)

1 nhận xét:

  1. U�y... Hấp dẫn � nha!

    Em ko quick comment được. Em thấy ava "hot" qu� ;)! :D B� Khu� lớn kh�ng ngờ!

    Trả lờiXóa