Thứ Năm, 10 tháng 3, 2011

Một mình vào ngã ba biên giới

Huy Minh
(11/1999)

Sau lưng tôi là ngàn vạn núi đồi Tây Bắc. Bên trái là dãy Phu Đen Đinh khổng lồ ôm trọn một dải biên thuỳ phân định Phong Xa Lỳ – Sầm Nưa với Lai Châu, thế giới của sơn dương và cầy cáo, đêm đêm vẫn dội lên tiếng guốc của nai, hoẵng, tiếng gầm của hổ và báo sao trong những thung lũng xa xôi. Bên phải là dải Phu Si Lung cao tới tận mây xanh, xứ sở của mây mù, núi cao và khe sâu, của huyền thoại xa xưa lắm rồi về một cung điện hoa phù dung trong lòng đất đã sụp đổ từ lâu, chỉ còn trong ký ức cư dân sống ở lưng chừng những đỉnh non cao. Còn trước mắt tôi là Apachải, là bản Hà Nhì cuối cùng nằm ở cực Tây của Tổ quốc. Từ đây trở về Hà Nội phải mất ít nhất 10 ngày trời cho chặng đường non 1.000 cây số, trong đó có 7 ngày đi bộ. Nhìn lại mình: giày ba-ta rách nát, các ngón chân tụ huyết, đầy những vết cắn của vắt, ruồi vàng, cỏ gianh và đá sắc, toàn thân ớn lạnh vì mồ hôi và khí đá khi chiều đang dần tắt. Tôi không chắc lắm từ đỉnh dốc này mấy cây số đường chim bay nữa sẽ đến toạ độ 103o46’ kinh đông chia ba biên giới, đến bản Long Phú, huyện Giang Thành, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, đến bản Lầu Sì Pơ Chải và Si Ca Hồ, huyện Nhọt U, tỉnh Phong Xa Lỳ nước bạn Lào, nhưng chắc rằng đó đã là những chân trời khác, không còn là Tổ quốc tôi. Còn đây là thung lũng Apachải, một dải đất bằng phẳng hiếm hoi như tuột xuống từ chân mây, vàng rực rỡ trong rừng hoa cúc quỳ dại nở suốt thượng nguồn Mophí, nơi thị thành xa mãi sau lưng kia đêm đã xuống từ lâu, nhưng ở đây ánh tà dương vẫn còn sáng ửng trên những đỉnh đồi trùng điệp, nơi Tổ quốc giã từ ánh nắng.


Có bốn con đường đến được Apachải. Thứ nhất là đi trực thăng quân đội chỉ sử dụng khi có chiến tranh hoặc mưa lũ cực lớn, cần dùng cầu hàng không để vận chuyển lương thực. Thứ hai là đi từ Điện Biên Phủ đến Mường Lay, chờ một hai ngày có xe đi Siphaphìn, từ đó đi bộ dọc biên giới Việt – Lào xuyên rừng rậm chừng 6 ngày trời mới tới. Hai cách cuối trước hết đều phải đến Mường Tè, cách lòng chảo Điện Biên 200km. Từ đó có thể đi bộ khoảng 8 ngày qua các bản Giàng Ly Cha, Ngà Chổ, Nậm Dính, Nậm Khum, Leng Su Sìn, Tả Kho Khừ mới đến Apachải. Con đường này phải qua dốc Tà Tổng mà độ cao chỉ thua đèo Pha Đin nổi tiếng của Tây Bắc, leo cật lực một ngày mới lên đến đỉnh, một ngày nữa mới xuống hết dốc. Nếu không chỉ còn cách ngược thượng nguồn sông Đà bằng độc mộc, từ đó đi bộ 6 ngày qua các bản Si Nế, Mù Cả, Ma Ký, Ma Ú, San Sà Hồ, Gò Cứ, Sen Thượng… để đến Apachải. Đây là con đường gần nhất tôi chọn, từ huyện Mường Tè muốn vào chỉ… phải đi bộ có 150km nữa.

Hai giờ sáng tôi mò dậy xách ba lô ra bến xe Điện Biên Phủ. Có điều gì đó không bình thường đang diễn ra ở cái bến xe thường ngày thưa thớt này. Chiều hôm qua, trại C10 vừa trả tự do cho 35 người đàn ông vượt biên trái phép. Nhóm họ đi có 200 người, toàn là nông dân ở Đà Nẵng, Quảng Bình, Quảng Trị vay tiền ngân hàng chui lủi đến tam giác vàng, vùng giáp ranh Mianma, Lào, Trung Quốc lặn lội tìm trầm, bị quân đội Lào trục xuất. Cả đêm qua họ uống rượu, đánh nhau, chửi nhau bằng tiếng Lào, tiếng Thái, trút lên đầu nhau những uất hận sau những chuyến đi dài ròng rã, nhưng ở nơi đất khách quê người không dám nói thành lời. Những người đàn ông mặt mũi lì lợm, tóc trùm tai cợp gáy, môi thâm, mắt trắng, ngồi thành từng nhóm, hút thuốc như điên. Kẻ thì nhảy lên ôtô vừa van nài vừa dọa nạt tài xế cho về đến được quê nhà, người thì móc những đồng bạc Thái, đôla nhàu nát giấu trong những con mắt giả, dán sau vành tai, cuộn trong quần lót hoặc những vết thương nào đó trên cơ thể, đổi thuốc, rượu, bánh mì. Tôi chuẩn bị bước tiếp vào một trong những con đường mà họ đã đi qua.

Chưa khởi hành đã gặp điều lo lắng – có thể phải đợi thêm nhiều thời gian sau mới đến được Mường Tè vì không có người đi. Ông tài chạy chuyến này suốt ba hôm sáng nào cũng đánh xe ra bến rồi lại về không. Cuối cùng xe cũng rời bến với tôi, hai người lính và một người thợ làm đường.

Lính biên phòng tiểu khu 40 đóng tại Mường Tè bảo, vào Apachải có 36 kiểu chết: cây đổ, nước cuốn – chết; đất lở, lửa cháy chạy không kịp – chết; rắn cắn, sốt rét, lạc rừng – chết… Vào mùa khô, gió Lào thổi như hắt lửa, lá rừng vỡ vụn dưới bước chân người, lửa rừng cháy suốt đêm trên những đồi cỏ gianh vàng vọt, có những chặng đường đi cả ngày không kiếm nổi một giọt nước. Mùa mưa, đường mòn ngập bùn đến đầu gối, muỗi vắt nhiều vô kể, đất đá trượt ầm ầm trong những thung lũng vắng, suối cuốn trôi trâu, cây rừng mọc nhanh như phù phép, người đi một tay chống gậy, một tay cầm dao phát liên tục mới luồn qua nổi… Xin giấy phép ra vào khu vực biên giới, công an huyện ký cho tôi đi hẳn 2 tháng. Từ xưa đến nay, dù là cán bộ lâu năm ở huyện vào Apachải bao giờ cũng phải có hai người, lỡ ngã bệnh, gãy chân còn cõng nhau ra. Dạng VIP mới được mang theo vô tuyến điện, xảy ra bất trắc thì gọi trực thăng vào cứu. Huyện Mường Tè hiện có 5 cán bộ vào Apachải làm việc, đi đã 47 ngày chưa thấy trở ra, cũng không có tin tức gì hết cả. Khách lạ mặt vào ngã ba biên giới được nửa đường không còn sức quay ra, thì chỉ có mỗi một trò là vào bản nào đó, nói dăm ba câu bậy bạ, dân quân xã sẽ không ngần ngại trói cổ lại, đánh cho một trận rồi vứt lên lưng ngựa giải suốt ngày đêm về huyện.

Chặng đầu tiên là ngược sông Đà. Sông Đà ở thượng nguồn danh bất hư truyền, không giấu giếm phô diễn sức mạnh hoang dại của nó. Sông Đà quanh năm nguy hiểm. Mùa lũ đổ về, có những khúc sông rộng thêm hàng trăm mét, nước ngầu đỏ thúc điên cuồng vào các khối núi chắn đường, tạo thành vực xoáy khổng lồ, nhấn chìm từng thân đại thụ lạc dòng nhẹ nhàng như bèo tấm rồi quăng khỏi mặt nước ở mãi dưới xa. Mùa khô, lòng sông cạn phơi đầy đá tảng, tạo thành những chuỗi cạm bẫy dài vô tận, gầm réo suốt ngày đêm. Ngày tôi đi, thuỷ chế ở mức trung bình nhưng sông Đà lại che giấu trong lòng mình một ẩn hoạ không ai lường trước được – những cây gỗ bị lũ lột truồng cành lá lăn vô định dưới đáy nước là ma trận thiên biến vạn hoá, mà chỉ có những hoa nước nhỏ nở lục bục trên mặt sông là dấu hiệu duy nhất ngầm báo sự có mặt của chúng.

Chiếc xuồng gỗ 40 mã lực dài tới gần 10 mét, mũi cong vút như cánh cung chỉ là một trò chơi con trẻ của dòng nước lũ. Lái xuồng ngược sông Đà có đoạn cần tới hai người nữa: một tát nước tràn vào, một ngồi ở mũi căng áo mưa chắn bọt nước cho người sau khỏi ướt. Lại có những đoạn sông Đà đột nhiên yên ả, phẳng lặng đến lạ thường. Đá ngũ sắc trên các triền núi thẳng đứng soi vẻ thiên kiều bá mị xuống lòng sông trải dài như một tấm gương. Khói xanh từ các mái nhà sàn người Cống, người Thái nằm vắt vẻo trên những đỉnh đồi cho khách lữ hành một cảm giác thanh bình tuyệt đối. Người Mường Tè bảo: sông Đà dữ nhưng không ai sợ sông Đà, có lẽ chẳng sai vì sông Đà đẹp quá. Ngày trở về, nghe tiếng thác sông Đà gào thét từ tận bên kia hai dãy núi mà kẻ xuyên rừng lâu ngày vui mừng như nhận ra tiếng gọi của người thân.

Chừng một giờ xuồng nữa sẽ đến biên giới Việt – Trung, tôi xin xuống. Từ đây tôi chỉ còn có một mình. Đèo Pác Ma thực chất là một bờ sông lớn, dốc thót ruột, leo được một nửa đã chực muốn quay về. Cho đến khi sương chiều dăng đầy đồi núi vẫn không thấy bóng dáng một nóc nhà sàn. Sau một sườn đèo, bỗng vỡ oà tiếng trẻ con cười nói, tiếng chày giã gạo của dân bản Si Nế từ bên kia thung lũng – mệt mỏi lập tức tuột ra khỏi người, trong cảm giác hạnh phúc được nghe thấy thanh âm đồng loại.

Sáng hôm sau tôi dậy sớm, tiếp tục đi. Lại một thân, một mình men theo con suối Nậm Ma. Ngày ở đây chỉ nắng dăm tiếng ban trưa, thời gian còn lại ngập chìm trong sương mù đặc quánh. Người Hà Nhì đi nương, đi săn chỉ có đôi chân trần, đi từ bản nọ đến bản kia mới dùng đến dép. Tôi cứ theo dấu dép hằn trên đất đồi, rêu đá, trên tầng lá mục đầy muỗi, vắt mà đi. Sau những góc núi khuất, chim rừng giật mình đập cánh bay từng đàn lớn. Rừng không bao giờ yên tĩnh bởi gió, cành khô rơi, nước chảy và những tiếng sột soạt kéo dài vô tận. Lại có những lối mòn yên tĩnh đến lạnh sống lưng khiến người đi phải khua gậy vào thân cây ven đường cho bớt sợ.

Si Nế đang hoan hỉ đón sự trở về sau 35 năm xa bản nhỏ của thầy giáo Anh hùng Nguyễn Văn Bôn – huyền thoại của một thời hoá giải lời nguyền “người Hà Nhì lội qua suối bị lừa ăn mất chữ”. Bây giờ dăm ngày người Si Nế mới gặp một dấu chân trâu rừng bên suối, một cây dổi bị gấu bẻ cụt ngọn, chứ thuở thầy Bôn mới đặt chân đến đất này, hươu nai đi thành từng đàn lớn, rừng không có đường mòn, ruồi vàng, bọ chó nhiều vô kể. Ngày ấy người Hà Nhì ở Si Nế không một ai biết tiếng phổ thông, đói bẻ ngọn sậy non mà ăn, rét lấy tro khô trong bếp rắc lên chân cho đỡ lạnh. Năm 1959, theo tiếng gọi của Đảng, thầy Bôn cùng vài người bạn lặn lội lên đây, ngày đó mới 21 tuổi. Nhờ một người bản xứ công tác dưới huyện Mường Tè làm phiên dịch, suốt hai tháng trời, thầy Bôn qua lại bảy bản ở Mù Cả, vận động tất cả trẻ con 8-12 tuổi về học tập trung, được tổng cộng 40 em cả trai lẫn gái, ghẻ đầy mình, chấy đầy đầu, khi đến mang theo… 40 bàn đèn thuốc phiện bằng đồng cổ. Thầy Bôn nhờ dân chặt tre làm trường, làm ký túc xá dân lập đầu tiên trong cả nước ở rẻo cao. Dầu không có, bút không có, thầy dạy trò cầm que viết lên không cho quen cổ tay, rồi viết xuống đất, viết lên lá chuối, ngày dạy học chữ, tối nhảy múa. Biết chữ rồi, người có trình độ già lớp 1, non lớp 2, lại quay về bản dạy cho dân mình. Thế mà cuối cùng có được tới gần 200 học sinh tất cả, nhiều người sau này về tỉnh nên danh phận. Những cái tên như Lý Khai Phà, Lý Phi Chờ, Lý Xé Hừ, Lý Pờ Sơ… là niềm tự hào của tất cả mọi cư dân ở ngã ba biên giới.

Nghe tin thầy về thăm đất cũ, có những người đàn ông bạc đầu chắp tay lạy thầy rồi sụp xuống khóc. Thầy rời bản Mù Cả về đây, bà con còn đi sau tiễn tới nửa ngày đường, kêu qua thung lũng “Ơ, thầy giáo ơi”. Tôi ngồi ghi câu chuyện cũ của người thầy giáo già trong bóng đèn dầu tù mù, ngẩng đầu lên đã thấy bà con đến xem ngồi chật nếp nhà gianh…

Gần nửa đêm, bà con kéo nhau ra một sườn đồi khá rộng hát, xoè. Con gái mặc áo thí mo, mũ uxo, váy dài tự khâu bằng vỏ chăn con công múa suốt đêm không biết mệt – đây là điệu Là le mi só le, kia là điệu Lá lá so phà… Con trai đệm đàn nà khơ, nhị xí gó, làm bằng hộp xà phòng và dây câu cá, thổi sáo mế đu, khoét từ thân cây đót vẫn làm chổi quét nhà trong tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng lép bép của lửa đêm. Ai cũng phải hát, phải xoè. Giữa đêm, mọi người kéo nhau về nhà trưởng bản, cơm gạo nương đỏ đựng vào xô, rượu uống bằng bát, rau thơm hái trên núi về để cả rễ chấm lụ khạ pá xì vừa chát vừa cay, không say không đứng dậy. Uống xong là mổ lợn treo đuôi lên xà nhà xẻo thịt ăn dần, và lại giã gạo, nhảy múa, gõ trống cho đến sáng.

Đêm ấy, trong tiếng sáo bố lố của Pờ Phí Chừ, một người đàn ông bị gấu vồ rách mặt thổi ru thầy, Lương Đức Cường, lính biên phòng đồn 315 về gác cho dân, ôm tôi ngủ chung cho đỡ lạnh. Cường quê Hải Dương, mới ốm dậy từ một trận sốt rét không có thuốc tiêm, tưởng chết. Cường nhập ngũ cách đây 2 năm, bạn bè đưa ra bến xe biết đi Lai Châu đều khóc. Thế mà người lính ấy, trong câu chuyện xa quê, đã kể rằng, Tết miền xuôi năm nay không về dù đã được ra quân. Chưa chia tay mà đã nhớ thượng nguồn, thác ghềnh, sương gió và đá núi, nhớ những chủ nhân của ngã ba biên giới.

Sáng hôm sau tôi dậy sớm, ăn dăm miếng bánh cha le, giống như bánh bột lọc dưới xuôi, chấm mật mía cho đúng lệ đồng bào rồi tiếp tục cuộc hành trình đã định của mình.

Tôi đến bản Mù Cả khi trời vừa sụp tối. Người Mù Cả cũng hiếu khách như bất kỳ ở bản Hà Nhì nào khác – nhà dù đói rách đến đâu cũng có riêng một giường cho khách qua đường nghỉ lại. Khách đến bản vào nhà nào cũng được, có thể để ba lô ở nhà này, lại ăn cơm ở nhà kia. Tôi nghỉ nhà Toán Ma Tơ. Trong khi tôi vừa ngâm chân bằng nước nóng hoà muối và cao Sao Vàng vừa hỏi chủ nhà đủ thứ chuyện, thì vợ anh ngồi cặm cụi hong quần áo, giầy ướt cho khách trên bếp lửa. Ngày hôm sau sẽ rất mệt mỏi trên con đường chừng 30 cây số mà dân bản địa gọi là “đường ngựa đứt hơi”, tôi xin phép đi nghỉ sớm. Nửa đêm chợt tỉnh vì gió lạnh thổi sương luồn vào chăn mỏng, tôi nghe tiếng con gái Ma Tơ nói chuyện với một chàng trai trên giường ngay cạnh. Sẩm tối vào nhà, rõ ràng cô bé này chưa tròn 15 tuổi. Hoá ra con gái Hà Nhì yêu rất sớm, chuyện chăn gối với người mình yêu ngay tại nhà bố mẹ đẻ cũng tự nhiên như việc hít thở khí trời vậy. Nay có thể yêu người này, mai người khác không ai cấm, nhưng khi cưới nhau rồi thì phải chung thuỷ cho tới tận ngày nằm xuống đất. Khách đến, con gái chủ nhà ở trong buồng rũ chăn, rũ chiếu mà khách không “biết điều” vào ngủ cùng thì tối đó không có chăn mà đắp, sáng dậy không có cơm nắm mà mang đi đường. Vậy mà khi tôi ngồi nói chuyện, có tới ba cô mặc rất diện vào túm tay lôi đi, nói một tràng gì đó. Ma Tơ bảo, nó khen cán bộ đẹp trai, rủ ra đồi chụp ảnh. Tôi nhờ Ma Tơ nói lại rằng trời đầy sương thế này thì làm sao mà chụp được, với lại cán bộ đau như rụng mất chân rồi.

Ma Tơ đập tôi dậy thật sớm, bắt uống rượu thật nhiều: “Cán bộ uống cho ấm, đi cho đỡ mệt”. Quả thật đoạn đường từ Mù Cả đến Ma Ký dài 7 cây số chỉ đi mất gần hai giờ. Nhưng tan rượu thì lạnh thấu xương, khớp chân rã rời không tuân theo ý mình nữa. Qua Ma Ký chừng hai tiếng thì điều lo sợ nhất đã xảy ra. Hết một khe suối nhỏ, đường mòn chia thành sáu ngả. Ngồi đợi gần nửa giờ mà chẳng có ai qua để hỏi đường, tôi đánh liều đi vào một ngả, một lát thì hết lối. Đường thứ hai càng đi càng rậm rạp, thiếu dấu chân người. Có dăm nóc nhà sàn thấp thoáng, tôi đi cố đến để hỏi đường. Không một bóng người, cái bản ma quỷ này đã chết từ lâu trong sương gió. Lạc đường. Trời đầy mây mù, không còn biết đâu là phương hướng, tôi đã thành một thứ trò chơi của rừng già. Chưa bao giờ tôi có cảm giác cụ thể hơn về sự cô độc đến vậy. Tôi không dám đứng ở đó lâu, rẽ cỏ tìm dấu chân mình quay ngược trở lại, đoạn nào đi được thì đi, đoạn nào chạy được thì chạy, lộn về Mù Cả.

Dân bản cho hay, nếu tiếp tục đi xuyên qua cái bản hoang tàn đó ba giờ nữa sẽ sang đất Trung Quốc, còn con đường tôi cần đi cách ngã sáu chưa đầy 50 mét, nằm trên lưng chừng vách đá. Một lát sau tôi có khách đến thăm, đó là Vương Đình Châu, Phó đồn biên phòng 315 được một người lính đi kèm dìu đến. Anh Châu bị sốt rét đã ba ngày, người xanh rớt, từ bản Mù Sung gắng gượng chống gậy về được đến đây, thấy vết giầy lạ đoán là có khách dưới xuôi nên tìm xin thuốc cảm. Anh Châu bảo: “Em quay về đi, từ đây vào Apachải còn 70 cây số nữa, xuống sức em không đến nổi đâu”. Tôi nghĩ bốn ngày quay về còn ngại hơn, nên quyết định đi tiếp, rồi muốn ra sao thì ra. Tối anh Châu đi tìm khắp bản, có Vù Á Hoa ngày mai đi sâu vào Ma Ú, dặn đi dặn lại cho tôi được đi cùng.

Á Hoa dáng đi hơi cúi, người gầy nhỏ nhưng sẵn lòng mang hộ ba lô, có đoạn còn cõng qua suối, cởi giầy, bắt vắt cho tôi. Lòng tốt của anh lúc đầu khiến tôi ngờ vực. Tôi thử rút tiền gửi nhưng Á Hoa không lấy, cởi áo tặng không nhận, cho thuốc cảm không nghe. Mãi sau mới rõ Á Hoa nghiện suốt 8 năm, bị nhiều người xua đuổi. Còn tôi, người Kinh miền xuôi, chịu đi cùng, chịu nghe kể lại những đoạn đời này là một điều gì đó anh chưa bao giờ dám mơ tới. Á Hoa mời tôi vào nhà ăn cơm trưa bằng được, lụt cụt chạy xuống suối đánh cá, ra đồi đuổi gà làm cơm. Giữ tôi ở lại chờ ngày trăng tàn vào mỏ muối Mồ Pá Chù săn nai không được, Á Hoa mang ba lô tiễn tôi gần năm cây số. Á Hoa bắt tôi nhớ khi đi đến đoạn suối có rất nhiều cổ thụ, ong làm tổ thành từng đàn lớn thì đặt vào tảng đá ven hồ nhỏ hai điếu thuốc lào, và đi tiếp không được quay đầu nhìn lại. Gặng hỏi mãi Á Hoa mới kể rằng, đoạn suối đó có ma thiêng, trâu bò không dám lội, dù giông gió thế nào cũng không một chiếc lá rơi được vào mặt nước. Người xưa đến đây dựng bản kể lại, ngồi để tay ra sau lưng cầu xin còn được ma cho bát, cho nồi. Á Hoa tháo con dao găm có vỏ da rất đẹp đeo bên người tặng bạn để hộ thân. Chào nhau, Á Hoa khóc. Sau này mới biết thêm rằng, Á Hoa đã đóng một mảnh giấy vào thân cây ven đường mòn nhờ người qua lại, có ai gặp tôi thì gửi lời mời hẹn ngày quay lại uống thêm với anh vài bát rượu.

Càng vào sâu vùng ngã ba biến giới càng thấy nghèo đói. Trẻ con bản Gò Cứ thấy khách miền xuôi, trần truồng chạy theo đông như kiến. Bản Gò Cứ, theo cách nói của bà con, rẽ cá mới thấy nước, ra vườn hái rau không nhanh bằng xuống suối quăng chài, mà dân thiếu thốn đủ bề. Người Gò Cứ hầu hết mù chữ, không nói được tiếng Kinh – cả bản có 82 nóc nhà nhưng chỉ 9 hộ đủ ăn mùa giáp hạt. Lưỡi cày thiếu, dao phát nương cũng thiếu. Đã thế đêm nào lợn rừng cũng về hàng đàn hai, ba mươi con phá ngô, phá sắn. Lồ Ô Vô mới 32 tuổi đầu mà có tới 10 con, vợ quanh năm chỉ nằm ở nhà mà đẻ. Sốt rét triền miên, mỗi lần cử người về PácMa xin thuốc chỉ được 30 viên đựng không đầy một bát, cả bản dành dụm bẻ đôi chia nhau cũng không đủ. Trưởng bản Pờ O Xá người như ma rừng, quần áo rách phải buộc túm bằng lạt, nửa đêm còn làm thịt một con chó ba cân đãi khách. Anh Xá lo rằng một năm nữa Gò Cứ sẽ không còn người có trình độ lớp năm, đi họp ở xã biết ghi cái chữ ra giấy về phổ biến lại cho bà con, thay anh làm trưởng bản. Lời nguyền “người Hà Nhì lội qua suối bị lừa ăn mất chữ” đến giờ vẫn còn dai dẳng. Trẻ con giỏi lắm chỉ hết lớp 2, muốn học tiếp phải về Mù Cả theo con đường “ngựa đứt hơi” đến người lớn còn phải đi mất 9 tiếng, sao đi nổi? Người ta quên mất những bản làng heo hút này, hay không làm gì nổi? Nghỉ dừng chân ở nhà nào, dù chỉ uống một bát nước đun sôi, tôi cũng vờ để quên một cái gì đó: áo mưa, đèn pin, dao cạo râu, bật lửa… Một chút cũng có thể giúp họ đỡ nhọc nhằn.

Từ Gò Cứ lên Sen Thượng, người ở đây gọi là “con đường khỉ”. Đường dài gần 20 km dọc suối, bám vách đá bên này chán lại lội sang bám vách đá bên kia. Suối Mophí có chỗ lội sâu ngang bụng, nước lạnh buốt xương, lính biên phòng vào nhập ngũ dân bản phải túm thắt lưng dắt đi từng bước một. Lội Mophí, đã ngã là chết, đầu gối va vào đá sẽ không đứng lên được nữa, cứ thế bị nước cuốn trôi. Trước ngày tôi đi hai tuần, một thiếu nữ Apachải đội muối bị nước cuốn, dân bản vừa khóc vừa đuổi theo tìm xác suốt 7 ngày trời mới thấy. Đó không phải là xác nữa mà là một cái túi da người lổn nhổn xương vụn vì ghềnh thác, tóc rối bời vì nước xoáy.

Trên những doi cát dài bốc hơi ngùn ngụt trong nắng trưa, thỉnh thoảng lại xuất hiện những dấu chân hươu to như miệng bát. Cá suối đuôi đỏ như lửa nghe tiếng chân người, chạy bắn nước. Trong những vực sâu, vẫn còn những con to như đứa trẻ, muốn bắt phải dùng sào đuổi ra dòng cạn rồi dùng súng bắn. Những con rắn đen, trắng nhỏ như chiếc đũa cuộn mình ngủ ngon lành trong các hốc đá, mặc người đi lại, những vạt cỏ gianh dài hai, ba trăm mét muốn vượt qua không phải là đi, mà là chui, lá sắc cào rách bất kỳ phần cơ thể nào lộ ra ngoài quần áo. “Năm nay mưa nhiều cỏ rậm, rồi hai tháng nữa lửa rừng sẽ lại cháy suốt đêm thôi” – người Sen Thượng nhìn trời bảo thế.

Bản Sen Thượng đón chào tôi bằng hai cô gái trần truồng tắm suối, té nước líu lo rủ cán bộ xuống tắm cùng. Một cô chạy lên bờ chả ngại ngùng gì: “Cán bộ ơi, cho A Nhí xin một ít xà phòng thơm đi”. A Nhí đợi tôi cho xà phòng mỏi cả chân trần. Chủ tịch HĐND xã Xín Thầu – Chu Xế Chừ, tiếp khách lạ mà như đón bạn cố tri, mời thịt gà rừng, cá pàxì, tối đến tự tay anh đem cao trăn nướng trên than hồng hoà rượu. Sau ngày chiến tranh biên giới, đã gần 20 năm rồi không có nhà báo dưới xuôi vào Sen Thượng. Đó là một lý do và anh cũng có cho riêng mình một lý do nữa. Anh đã từng là một người lính cụ Hồ về quê nhà và không đi đâu thêm được nữa. Xế Chừ coi tôi là một dịp may chưa từng có, có thể đem giùm anh lá thư về Hà Nội cho người bạn một thời điếu thuốc hút chung trên đường hành quân. Khi bà con nghe tin nhà báo về bản kéo đến chật nhà, kể biết bao chuyện buồn vui đã về hết, tôi chứng kiến Xế Chừ ngồi chong đèn, mắt ướt viết thư cho bạn. Sen Thượng xa lắm Hà Nội ơi. Thế mà còn phải một ngày dầm mình trong suối lạnh suốt đoạn đường 24 cây số nữa mới đến được Apachải.

Sáu giờ chiều, trước mặt tôi là Apachải, là bản cực Tây của Tổ quốc, của giống nòi tự do, nơi một con gà gáy ba nước nghe tiếng. Tôi dựa lưng vào vách núi ngắm nhìn ước mơ nhỏ từ thời cấp 3 của mình, nhận thấy đã hoàn toàn kiệt sức. Chấn thuỷ rất đau vì gan phải làm việc liên tục, uống rượu quá nhiều, không đêm nào dám ngủ đẫy giấc, không đỉnh đèo nào dám ngồi nghỉ quá lâu. Chuyến đi dài mà dân trong làng báo vẫn gọi là “conscience tour – chuyến đi của lương tâm” đã tới được nơi cần đến.

Còn có nơi nào xa xôi hơn Apachải? Một bát muối mang lên được đến đây giá 12.000đ, gia đình nào trong bản có người tật bệnh mà quân y đồn 405 không cứu nổi, có nghĩa là chết. Dân Apachải trồng được lúa, nuôi được trâu, rau trồng ra để cho già chết đi mà không bán đi đâu được, không làm sao giàu có nổi. Năm 1982, thấy dân cõng một tấn lúa nhọc nhằn ra được đến huyện đổi muối, đổi dầu không bằng xách một cân thuốc phiện, một số vị lãnh đạo đã xót ruột, cho trồng thuốc phiện. Chỉ một mùa rẫy, hoa anh túc nở bạt ngàn trên các sườn đồi. Đó là thảm hoạ đến nay còn đeo đẳng. Có người hút mười lăm, hai mươi năm, nằm bẹp trong nhà, ôi thiu quần áo, chưa bao giờ sờ tay đến cái cày, cái cuốc. Có người bỏ sang Lào đi ở để được hút cho thoải mái, 6 tháng trời mà hút hết 38 lạng. Đầu năm, trạm biên phòng đi một buổi chiều thu được 70 bàn đèn thuốc phiện. Đến từng nhà vận động đi cai thì dân oán. Nghiện nặng nhất bản là vợ chồng Vàng Lá Lụ – Pờ Xà Mé – mà người mẹ của 8 đứa con này thời thiếu nữ đi cắt cỏ gianh còn vật ngã được cả thanh niên, nay tàn tạ như con ma rừng. Bộ đội khuyên can gẫy lưỡi cũng không chịu. Giờ đã đỡ hơn nhiều, cha đã về với con, chồng đã về với vợ, đi đâu cũng tươi tỉnh hát hò, gặp bộ đội ở đâu là chào hỏi.

Sống vắt vẻo trên những sườn non cao như người Mông, nhưng người Hà Nhì luôn quần cư ở những nơi thuận tiện với phương thức canh tác của mình. Đồng bào ở nhà đất có tường trình chắc chắn dày 30-40cm chống sương gió lạnh. Nhà ở vùng Y Tí, A Lú (Bát Xát – Lào Cai) tường cao đến 3-4m, mái dốc, ngắn, không hiên và chỉ có một cửa ra vào. Bên trong lại dựng thêm một lần tường có tác dụng phòng thủ và hỗ trợ chống rét. Lớp tường ngoài và tường trong cách nhau chừng 1m50, tạo nên khoảng trống gọi là hiên trong. Ở bức tường thứ hai mở một hoặc hai cửa để vào nhà. Hai gian ở hai đầu được ngăn thành hai buồng riêng cho vợ chồng chủ gia đình và con cái. Khoảng 1/3 chiều rộng của hai gian giữa là phần đất, còn lại được dựng thành sàn. Phần đất có bếp lò nấu cơm, cám lợn, có chạn bát. Phần sàn là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, nơi ngủ của con gái, khách đến chơi nhà. Trên sàn có bếp lửa cháy suốt ngày đêm. Nhà người Hà Nhì ở ngã ba biên giới lại có tường và mái thấp hơn với hàng hiên phía trước, nhà chỉ có một tường, thường chia ba gian, độ rộng dài tuỳ theo sức người, sức của. Rất nhiều kiểu nhà được xây dựng ở Apachải với vật liệu, kiến trúc khác nhau mà tôi chưa từng gặp trong suốt dải hành trình. Có nhà dựng hai lầu, lầu trên mở cửa bốn hướng, lại là nơi sinh hoạt chính của cả gia đình được dựng bởi thợ xây từ bên kia biên giới sang làm giúp – kiểu kiến trúc giao thoa của rất nhiều dân tộc anh em chỉ có ở bản cực Tây của Tổ quốc này.
40 giờ ở Apachải đủ để tôi tìm thấy vóc dáng can trường và tình nghĩa người ngã ba biên giới. Chủ tịch xã Pờ Dần Sinh vai đeo đài pin đưa tôi đi thăm thú khắp nơi. Anh có một thân hình hoàn hảo làm người ta kinh ngạc và một ước mơ cũng làm người ta không quên được: “Một ngày nào đó, mảnh đất này sẽ là… thành phố Apachải”. Nhưng trước hết Pờ Dần Sinh mong mỏi một con đường để người ngựa có thể chở lúa, dắt trâu đi lại suốt ngày đêm.

Ở Apachải không ai không biết đến “hai con hổ xám” của một thời: Pờ Xí Tài và Tô Minh Điến. Pờ Xí Tài cao tới gần mét tám, ngày còn trai trẻ sức vật trâu ngã, một mình một súng trận, một ngựa chiến suốt 10 năm rong ruổi, ngủ tai phải thức tai trái tiễu phỉ, gọi hàng. Tô Minh Điến là trưởng đồn biên phòng, sống 26 năm với bà con Apachải. Tôi vào thăm Pờ Xí Tài. Huyền thoại một thời bây giờ ngồi suốt ngày trên ghế mây giữa nhà, vì bệnh tật. Năm ngoái Pờ Xí Tài tự mình đi đánh bẫy gấu lớn, mổ ngay lấy mật nuốt sống mà bệnh cũng không đỡ được là bao. Thích nhất là nghe Pờ Xí Tài kể chuyện các chuyến săn. Có chuyến đi rình hổ dữ thì gặp nó đang rình lại mình trong rừng sạt. Con hổ dữ gầm lớn rồi quật đuôi chồm tới. Pờ Xí Tài giật bắn mình ngã ngửa ra sau, theo phản xạ thả bừa một loạt liên thanh. Con hổ thành tinh khiến dân Apachải phải đi sơ tán đổ vật xuống người Pờ Xí Tài như một cây gỗ nặng. Hôm tôi đến, hổ dữ lại về Apachải, người ta thấy vết chân nó ngang ngược dẫm cả vào những lối mòn xung quanh bản. Tôi theo dõi Pờ Xí Tài lồng lộn khi nghe tin báo có tiếng gầm của hổ chỉ cách bản một giờ đường, vào buồng lôi cây súng của ông chỉ dành riêng để bắn thám báo và ác thú, vuốt ve mãi cái nòng thép xanh biếc có lỗ toả nhiệt mà thở dài bất lực. Không ai bảo vệ nổi người Apachải trước thiên nhiên hoang dại, ngoại trừ chính họ. Còn Tô Minh Điến là một quân nhân quê ở Thái Bình, biệt kích từng treo giải rất hậu cho ai chặt được đầu ông. Tô Minh Điến ra quân từ năm 1988, suốt từ đó đến nay không quay trở lại. Người ở đây nghe tin dữ rằng, Tô Minh Điến ở quê thấy côn đồ hành hung hàng xóm bước ra can, bị dao xuyên qua người thiệt mạng. Cả Apachải làm ma cho Tô Minh Điến. Có nhà báo lên đây họ mừng lắm. Trong cuộc rượu uống với thịt nai tươi vừa bắn được khi chiều, già Chang Vang Sinh, chú Sừng Khai nhờ tôi về xuôi hỏi lại tin của Tô Minh Điến. Nếu gặp được ông thì nhắn là già Sừng Là Vù đã mất rồi, gửi lời bà con mời ông lên chơi, lên say. Người ta không tin một người như Tô Minh Điến lại có thể sớm qua đời như vậy được. Chiến tranh đã lùi xa, Pờ Xí Tài và Tô Minh Điến, hai hảo hán huyền thoại của ngã ba biên giới đang dần đi vào ký ức. Bây giờ, ai giàu có, ai học hành nên người ở Apachải sẽ là những huyền thoại mới. Nhưng biết đến bao giờ mới có, khi những đứa trẻ Apachải quần áo không có mà mặc, muối không có mà ăn, suốt ngày nô đùa trong phân trâu, bò tù đọng?

Tôi ở hai đêm với những người lính trấn giữ cửa khẩu quốc gia Apachải, những người ba, bốn năm trời không thấy một bóng phụ nữ mặc quần hai ống; những người nghỉ phép một tháng mà không dám về quê vì đường dài đi không kịp. Không có sức mà chuyển lương, tám người lính Apachải phải tự đục đẽo cày bừa làm tất tật để nuôi mình. Apachải là nơi những lá thư nhà hai tháng mới gửi lên được đến nơi, có người vợ giận chồng: “Mẹ đang ốm, con đang ốm, em trăm lần xin anh, ngàn lần xin anh mau gửi tiền về cho mẹ, cho con”. Không có người về từ Apachải thì xót lòng bao nhiêu cũng đành phải chịu.

Chia tay, có đêm mất ngủ ở Apachải của những người lính nhớ nhà, có rượu mật ong, cao sơn dương, hổ cốt, rượu lục phủ ngũ tạng hổ bà con mời uống để tôi đủ sức trở về. Già Chang Vang Sinh gọi tôi qua nhà bảo: “Con à, ata đặt cho con một cái tên để ở trên này bà con dễ gọi. Chang là họ của ata, Hừ Giá là to, là nhanh nhẹn. Ata đặt cho con tên này để về sau con còn về uống rượu với ata. Có trở lại không con?”. Tôi cúi đầu. Từ xưa đến nay, người đã ra đi chưa ai một lần quay lại Apachải. Còn tôi, lời thề khi đi lạc rừng vừa đói vừa khát ở Ma Ký – đến bằng được để không bao giờ quay lại Apachải – bây giờ tan thành nước. Tôi đã là người Hà Nhì, là con của ngã ba biên giới. Có thể hàng chục năm nữa, một khách lữ thứ ghé thăm Apachải, sẽ vẫn được nghe những câu hỏi ngây thơ đau xé ruột gan: “Từ đây về Hà Nội có xa đến một tỉ cây số không con? Có phải người Liên Xô biết bay cả rồi phải không cán bộ?”. Nhưng anh ta có thể sẽ được nghe kể thêm về một nhà báo đã một mình lặn lội lên đây, đã được là máu thịt của Apachải. Người ấy tên là Chang Hừ Giá. Người ấy không làm được gì cho những cuộc đời tăm tối và ngay cả những dòng chữ như chắt từ nỗi xót đau của người ấy cũng không biết bao giờ mới đến được với Apachải. Với người ấy, một lần nữa quay lại với Gò Cứ, Sen Thượng, Tả Long San, Lỳ Mà Tá, Apachải… không còn là “conscience tour”, mà chỉ giản đơn hai chữ: Trở về.



(Nguồn: Lấy trên blog của Huy Minh và cũng là một phần trong tập phóng sự "Kimono trong rừng thẳm" của Huy Minh - NXB Văn học 2010)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét