Gửi hương hồn Cao Xuân Huy và Nguyễn Mộng Giác
Hoàng Khởi Phong
Khi tôi viết những
dòng chữ này, thì ở Nam California gia đình và thân hữu của nhà văn Nguyễn Mộng
Giác đang tiến hành những nghi thức cuối, tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Trước đây gần hai năm cũng tại địa điểm này, cũng những thân hữu này, đã tiễn
đưa nhà văn Cao Xuân Huy trong chuyến đi chót cùng của đời anh. Nguyễn Mộng
Giác là Chủ nhiệm kiêm Chủ bút đầu tiên và Cao Xuân Huy là chủ nhiệm kiêm chủ
bút cuối cùng của tạp chí Văn Học, một
nguyệt san văn chương, xuất hiện ở hải ngoại từ năm 1985 cho tới 2008, khi Cao
Xuân Huy lâm vào căn bệnh hiểm nghèo và không thể cáng đáng nổi việc điều hành
tờ báo. Nói như thế có nghĩa là tờ Văn Học
đã không còn hiện diện trong cõi đời này vài năm, trước khi những người chủ
trương quan trọng nhất của tờ báo vĩnh viễn nằm xuống.
Để viết về Văn Học, tôi phải nhắc tới một tờ báo
khác với một cái tên dài hơn là Văn Học
Nghệ Thuật, và cũng phải nhắc tới căn nhà đầu tiên tôi mua vào năm 1983,
trên đường Dapplegrey, thành phố Garden Grove. Đó là một căn nhà 4 phòng ngủ,
và đàng sau có một cover patio rất rộng. Khi mua căn nhà này gia đình tôi chỉ
có hai bố con tôi và hai người cháu trai. Tôi không thể hình dung được nửa năm
sau, vợ chồng con cái Cao Xuân Huy từ một thành phố ở phía Bắc Cali dọn xuống
miền Nam. Huy và tôi vốn là hai anh em họ “Hồng Bàng”, đã biết nhau từ khi Huy học trung học,
và ngay cả sau này khi đã vào quân đội, Huy đã từng ăn dầm nằm dề ở nhà tôi.
Năm 1971 ở Pleiku, Huy đi phù rể với nhiệm vụ chụp hình cho đám cưới của tôi,
nhưng rút cục tôi không có một tấm ảnh nào trong ngày cưới. Chẳng những thế tôi
còn mất cả chiếc máy ảnh đi mượn, bởi vì anh còn mải uống rượu với những người
bạn thân của anh và tôi từ Sài Gòn lên. Do đó đầu năm 1984 khi anh dọn xuống
Nam Cali, nhà tôi tất nhiên là nơi trú ngụ ban đầu cho vợ chồng con cái anh. Chỉ
vài tháng sau khi Cao Xuân Huy đổ bộ từ phía Bắc xuống, tới phiên bố con Nguyễn
Mộng Giác thiên đô từ Texas qua. Nguyễn Mộng Giác và tôi vốn là bạn văn từ những
năm đầu thập niên 70, nên khi anh dọn qua Nam Cali, nhà tôi chính là nơi anh sẽ
tạm trú trong lúc chân ướt chân ráo mới đến. Rút cục căn nhà đó có một thời gần
giống như một trại tị nạn, với số người lớn nhỏ cả thảy 16 người, và được phân
phối như sau: Hai bố con tôi một phòng, bố con Nguyễn Mộng Giác một phòng, vợ
chồng Cao Xuân Huy một phòng, hai người cháu tôi một phòng. Còn tất cả những cậu
con trai bị dồn hết vào trong cái patio được làm thành một phòng ngủ tập thể.
Trong thời gian này điều phiền nhiễu nhất cho chúng tôi chính là chỗ đậu xe, bởi
vì vỉa hè trước cửa nhà tôi nhiều lắm chỉ có thể chứa được bốn chiếc xe, kể cả
driveway, trong khi những người trong nhà có tới bảy chiếc xe, đó là chưa kể tới
khách khứa văn nghệ của Giác và tôi, cùng với khách nhà binh của Cao Xuân
Huy nườm nượp ra vào. Nhất là những dịp cuối tuần, chúng tôi làm phiền hai bên
hàng xóm hầu như suốt từ chiều Thứ Sáu cho tới khuya Chủ Nhật. Thời gian này
Cao Xuân Huy chưa chính thức viết, tuy nhiên anh đang ngấm ngầm viết những dòng
đầu của cuốn hồi ký làm nên tên tuổi nhà văn Cao Xuân Huy sau này, đó là cuốn Tháng
Ba gãy súng.
Tháng 4 năm 1985,
nhà văn Nguyễn Bá Trạc từ San Jose xuống thăm chúng tôi, anh mang xuống miền
Nam một không khí sôi nổi như con người anh. Trong lúc ngồi quán cà phê với
Nguyễn Mộng Giác và tôi, cùng quan sát cộng đồng biểu tình, Nguyễn Bá Trạc nói
với chúng tôi có lẽ bọn mình nên làm một cái gì đó, một tờ báo chẳng hạn. Nguyễn
Bá Trạc đã từng một mình chủ trương tờ Thời
Luận ở trên San Jose, đây là tờ báo sớm nhất trong vùng Bắc Cali từ năm 79,
nhưng không thể trụ nổi vì thời gian đó việc buôn bán của người Việt trên San
Jose chưa mấy phát đạt, mà tờ Thời Luận
là một tờ báo tựa vào quảng cáo nên không thể tồn tại. Do đó tôi trả lời Nguyễn
Bá Trạc là tôi không mặn vụ làm báo quảng cáo. Tối đó tại nhà tôi ngoài các gia
chủ Nguyễn Mộng Giác, Cao Xuân Huy, Hoàng Khởi Phong còn có thêm Nguyễn Bá Trạc
cùng hai thân hữu nữa, chúng tôi bàn thô về một tờ báo văn học thuần túy.
Sau khi Nguyễn Bá
Trạc quay trở lại San Jose, Nguyễn Mộng Giác và tôi càng ngày càng nung nấu ý
nghĩ về tờ báo thuần túy văn học này. Trước đó hai năm tờ báo văn chương thuần
túy là tờ Văn Học Nghệ Thuật do hai
nhà văn Võ Phiến và Lê Tất Điều chủ trương sống lây lất chưa đầy mười số thì phải
đình bản, và bấy giờ trên thị trường chữ nghĩa của người Việt hải ngoại còn duy
nhất một tờ Văn, do nhà văn Mai Thảo
chủ trương. Lần họp thứ hai cũng ở nhà tôi, có nhiều anh em văn nghệ hơn, nhưng
tựu trung có hai ý kiến: Một là tìm cách quy tụ hết tất cả những cây viết thành
danh, bày hàng tất cả những người hiện đang sống bên ngoài đất nước trên trang
bìa tờ báo. Ý kiến thứ hai dường như thiểu số tuyệt đối, vì chỉ có mình tôi cho
là không cần các tên tuổi lớn, chỉ cần trong vài số đầu chứng tỏ cho độc giả thấy
đây là một tờ báo văn học thuần túy. Ban đầu với những cây viết mới có thể
không gây được tiếng vang, nhưng đó là tờ báo, mà những người chủ trương trân
trọng từng bài thơ, từng mẩu chuyện. Tôi chủ trương tin vào chính mình, viết
cho tới không sớm thì muộn độc giả cũng mở vòng tay đón nhận tờ báo.
Từ trái sang phải: Phan Nhật Nam,
Khánh Trường, Hoàng Chính Nghĩa, Hoàng Khởi Phong và Cao Xuân Huy.
Rút cục tờ báo xuất
hiện với sự tham dự của khá nhiều cây bút đã thành danh ở trong nước. Với sự hiện
diện của nhà văn Võ Phiến ở vị trí Chủ nhiệm, tờ báo là sự tiếp nối, hay khác
đi là sự tục bản tờ Văn Học Nghệ Thuật,
và hầu như tất cả mọi thành viên đều cho là với cái tên này, ít nhất tờ báo
không mang vẻ cạnh tranh với tờ Văn của
nhà văn Mai Thảo. Vị trí Chủ bút do nhà văn Lê Tất Điều đảm nhiệm, và Nguyễn Mộng
Giác là Tổng thư ký. Đó là bộ ba thực sự điều hành tờ báo, phần tôi là Chủ nhiệm
trên phương diện pháp lý, nghĩa là có bổn phận hàng năm khai thuế. Ngoài ra nhà
văn Nhật Tiến tuy không giữ một chức vụ nào, nhưng nhà anh là nơi mỗi tháng
nhóm chủ trương họp một lần, ăn với nhau một bữa cơm, nhận báo mới, và đồng thời
chọn chủ đề, phân chia bài vở cho số sắp tới. Sở dĩ chọn nhà anh Nhật Tiến vì
ông Chủ nhiệm Võ Phiến ở hướng Bắc tại Los Angeles, chủ bút Lê Tất Điều ở phía
Nam tại San Diego, nhà tôi thì đang là trại tị nạn, và nhất là chị Phương Khanh
với các cháu gái con anh chị Nhật Tiến sẽ đãi nhóm chủ trương một bữa ăn đích
đáng.
Chỉ sau vài số báo,
Văn Học Nghệ Thuật được các cây bút hải
ngoại tới tấp gửi bài tham dự, cũng như sự trợ giúp tài chánh của những người
coi văn chương như là món ăn tinh thần. Khoa học gia Trương Vũ, là một thí dụ
điển hình. Trương Vũ là người của khoa học, ông làm việc tại NASA, nhưng đã có
những đóng góp đáng kể cho văn học Việt Nam ở hải ngoại. Năm 1995, hai mươi năm
sau khi chiến tranh tàn, Nhà xuất bản Cub Stone ở tiểu bang Massasschusset dự định
ấn hành một tuyển tập văn học về hậu chiến Việt Nam, quy tụ nhà văn của Việt
Nam ở trong nước và nhà văn Mỹ. Chính nhờ sự đóng góp của Trương Vũ trong thành
phần chủ biên, khi tuyển tập The Other
Side of Heaven ra đời, nó có thêm tiếng nói của tám cây bút Việt Nam ở hải
ngoại, cùng xuất hiện với mười hai cây bút Việt Nam ở trong nước và mười tám
cây bút Hoa Kỳ. Nói tóm lại sau khi chiến tranh tàn được hai chục năm, đây là một
tác phẩm quy tụ nhà văn của ba phe tham chiến, đã từng tận lực bắn giết nhau
ngoài mặt trận. Không riêng gì Văn Học
nhận được sự trợ giúp hết lòng của Trương Vũ, sau này khi tờ Hợp Lưu ra đời, anh cũng là một người
lúc nào cũng mở hầu bao cứu cấp, mỗi khi hai tờ Văn Học và Hợp Lưu gặp phải
những cơn khủng hoảng tài chánh.
Tròn một tuổi do những
hoàn cảnh cá nhân, lại xa xôi cách trở, nhà văn Võ Phiến và Lê Tất Điều rút ra
khỏi ban chủ biên, tờ Văn Học Nghệ Thuật
đối diện với lần lột xác đầu tiên, trở về với cái tên dự định ban đầu là Văn Học. Trong lần cải tổ này Nguyễn Mộng
Giác ở vị trí Chủ nhiệm kiêm Chủ bút, tôi đảm nhiệm phần vụ cũ của Nguyễn Mộng
Giác, nghĩa là Tổng thư ký cho tờ báo. Về công việc thì Nguyễn Mộng Giác vẫn
gánh vác nhiều hơn cả, vì anh đang “viết
thuê” cho một tờ báo chuyên về quảng cáo, nên có nhiều điều kiện lo
cho tờ Văn Học hơn tôi. Thời gian này
tôi vẫn là một người làm thợ tiện ca ba, nghĩa là đi làm từ 11 giờ đêm tới 6 giờ
sáng, mỗi khi về tới nhà tôi lăn quay ra ngủ tới một, hai giờ chiều mới trở dậy,
đi lấy thư với hy vọng có thêm nhiều độc giả dài hạn, có thêm tiền để lo trả nợ
nhà in, mua thêm tem để gửi báo. Và rồi mỗi tháng một, đôi lần tôi và Cao Xuân
Huy ôm một đống báo ra Bưu Điện. Tôi cũng có nhiệm vụ trả lời thư tín của thân
hữu và bạn đọc. Riêng về Cao Xuân Huy, anh không còn là một người lính thuần
túy như trước kia, lòng tiếc thương đồng đội cũ, càng ngày càng dìm anh lún sâu
vào con đường chữ nghĩa. Đêm đêm khi tôi lên đường kiếm ăn trong xưởng tiện,
thì ánh đèn trong phòng riêng của vợ chồng, con cái anh vẫn còn le lói, và tôi biết
anh đang ráo riết hoàn thành những trang cuối của cuốn hồi ký viết về sự sụp đổ
của miền Trung và nỗi uất hận của những người lính một đời thiện chiến, giờ đây
ngơ ngác trước những mệnh lệnh chết người.
Hàng ngồi từ trái sang: Nguyên Sa, Mai Thảo
và Võ Phiến.
Hàng đứng: Nguyễn Mộng Giác, Đỗ Ngọc Yến và Hoàng Khởi
Phong.
Năm 1987, để sửa soạn
đón gia đình qua đoàn tụ, Nguyễn Mộng Giác thuê một căn chung cư ở Tustin. Anh
cũng đón ông Võ Thắng Tiết từ Alaska về chung sống. Tưởng cũng nên nhắc lại ông
Võ Thắng Tiết chính là tu sĩ Từ Mẫn, Giám đốc Nhà xuất bản Lá Bối trước kia.
Sau năm 75 dù không muốn ông cũng phải trở về đời sống bình thường. Năm 1980
ông vượt biên cùng chuyến tàu với gia đình nhà văn Nhật Tiến. Khi đến Mỹ ông chọn
nghề làm cua ở Alaska trong ba, bốn năm liền, rồi tích lũy vốn liếng trở về
Cali dựng Nhà xuất bản Văn Nghệ. Giờ đây sau hơn ba chục năm sống rải rác khắp
năm châu, giả như người Việt có một dòng văn học Việt Nam ở hải ngoại, thì phải
nói ông Võ Thắng Tiết là một trong những người có công đầu. Bởi lẽ nếu không có
bệ phóng của Nhà xuất bản Văn Nghệ, thì có thể giờ đây rất nhiều tác giả ở hải
ngoại vẫn còn chìm trong bóng tối. Gần hai chục năm sau khi hoàn cảnh buộc phải
ngưng hoạt động, Nhà xuất bản Văn Nghệ còn tồn lại một kho sách, với mấy trăm đầu
sách văn chương và biên khảo. Ông Võ Thắng Tiết cũng xuất bản những cuốn sách
vì nhu cầu giải trí, thị hiếu của độc giả, và đồng thời cũng là một nguồn thu
không nhỏ để nuôi sống những cuốn sách văn học. Nhưng những đầu sách này được in
dưới nhãn của Nhà xuất bản Đồng Văn, không phải Văn Nghệ.
Năm 1988 vợ và con
gái út của Nguyễn Mộng Giác được đoàn tụ, để được toàn tâm toàn trí lo cho gia
đình sum họp, Nguyễn Mộng Giác có ý định rút lui ra khỏi ban chủ biên. Đây là một
biến cố lớn của tờ Văn Học, đến độ
Trương Vũ từ DC phải đích thân bay về Cali, với ý định thuyết phục Nguyễn Mộng
Giác vẫn để tên trong ban chủ biên, còn công việc điều hành thật sự do Cao Xuân
Huy và tôi sẽ làm thay. Nhưng anh Giác quyết liệt rút ra, và đề nghị tôi thay
thế cho anh Giác. Ban đầu tôi định từ chối, vì nghĩ mình không đủ uy tín. Mặc
dù trước đó không lâu cuốn hồi ký Ngày
N+… của tôi đã gây được một tiếng vang đáng kể trong giới cầm bút, và trước
đó một năm cuốn hồi ký Tháng Ba gãy súng
của Cao Xuân Huy được coi như là một hiện tượng của văn học hải ngoại. Ngoài ra
tôi chưa kể tới những trói buộc về sinh kế cho bản thân tôi cùng con và hai người
cháu đang ăn học ở Mỹ, đồng thời vẫn phải yểm trợ tài chánh cho toàn bộ gia
đình ở quê nhà. Thời điểm đó sau khi đổi tên và thành phần chủ biên Văn Học đã đứng vững được ba năm, với gần
bốn chục số báo và ý kiến của Cao Xuân Huy cũng như Trương Vũ là phải duy trì tờ
Văn Học bằng mọi giá, mà nhân sự thì
chỉ còn hai người có thể cáng đáng là Cao Xuân Huy và tôi. Cuối năm 1988, nếu
tôi nhớ không lầm thì Văn Học số 38,
thành phần chủ biên giờ đây sẽ gồm: Hoàng Khởi Phong Chủ nhiệm kiêm Chủ bút,
Cao Xuân Huy Tổng thư ký, họa sĩ Khánh Trường lo phần trình bày. Nguyễn Mộng
Giác, Trương Vũ và Nhật Tiến trong thành phần cố vấn.
Nhìn chung thì ba
người trong ban chủ biên giờ đây đều là cựu quân nhân của QLVNCH, mà trong đó
Cao Xuân Huy là sĩ quan TQLC, Khánh Trường thuộc binh chủng Nhảy Dù và đã từng ở
trong Đại đội của Phan Nhật Nam là ĐĐT, và tất nhiên cả ba người “lính tẩy” chúng tôi không hề
có ý định làm một tờ báo mà nội dung cũng như hình thức, quá nghiêm chỉnh và
quý phái như hai vị tiền nhiệm vốn là nhà giáo. Ngay trong số đầu trách nhiệm,
tôi cho đăng tải truyện ngắn Pháo đài
trên sông Zyangty của nhà văn Trần Vũ, một cây bút mới thành danh cư ngụ ở
Pháp. Nội dung truyện ngắn này quả là một trái bom, vì nó chứa đựng những pha
làm tình của hai chị em ruột, sau khi vượt biên mà người chị vì muốn cứu mạng
người em, đã bị dày vò, vùi dập bởi hàng chục tên hải tặc. Số kế đó Văn Học đăng tải truyện ngắn Có yêu em không của Khánh Trường. Nội
dung của truyện ngắn này còn bạo liệt hơn cả truyện Trần Vũ, khi một người lính
mang xác đồng đội về nhà, trong lúc gia đình lo tang lễ và quàn xác người chết ở
dưới, thì trên gác xép người lính đã làm tình với em gái của người quá cố. Sau
hai truyện ngắn này dư luận của giới văn nghệ rộn hẳn lên. Bản thân tôi khi chọn
đăng tải hai truyện ngắn này không phải vì mối quan hệ đặc biệt với hai tác giả,
mà vì đó là hai truyện ngắn hay, và tôi vốn không coi tính dục là một cấm kỵ
trong văn chương.
Sau hai truyện ngắn
này Nguyễn Mộng Giác mời tôi và Cao Xuân Huy đi uống cà phê, anh cũng cảnh báo
chúng tôi là muốn thay đổi nội dung và hình thức tờ Văn Học thì nên từ từ, không thể gấp gáp quá e rằng sẽ gặp những phản
ứng ngược từ chính những nhà văn đang cộng tác. Trong lần gặp gỡ này tôi đã giấu
Nguyễn Mộng Giác vài lá thư của các văn hữu kết án nặng nề nhóm chủ biên mới.
Trong phần thư tín với các văn hữu, tôi đã trả lời thẳng thừng về việc không viết
tắt những chữ vốn được coi là kỵ húy trong văn chương Việt Nam. Tôi nghĩ rằng
văn chương dù có ngôn ngữ riêng, nó cũng phải phần nào dung chứa ngôn ngữ đời
thường, vả lại người đọc khi đọc đến những chữ viết tắt đó, ai cũng biết nghĩa
đích thực của nó, thì không vì một lý do nào phải viết tắt. Tất nhiên khi quyết
định đăng tải những đoạn văn này, tôi cũng đã cố gọt bớt những chữ quá thô tục,
nhưng dứt khoát Văn Học không viết tắt
bất cứ một chữ nào.
Để không khí nhẹ đi
phần nào, hai số kế tiếp Văn Học giới
thiệu những cây bút trẻ mới xuất hiện trên vòm trời chữ nghĩa và đang sinh sống
ở Pháp và ở Úc, tiếc là ở Canada trong thời điểm đó không quy tụ nổi các cây
bút trẻ xuất hiện đủ cho một số báo, nên không thể làm một số riêng biệt cho
vùng đất này.
Cũng trong thời
gian này ở trong nước, ông Nguyễn Văn Linh tuyên bố mở cửa về kinh tế và cởi
trói cho văn nghệ, đã làm thay đổi bộ mặt thiếu sinh động của văn học trong nước,
chuyên về minh họa. Chỉ trong một thời gian ngắn văn học trong nước trúng mùa bội
thu, trên khắp các cánh đồng. Ở bất cứ bộ môn nào cũng có những thành tựu với
các tác phẩm không còn viết theo chiều hướng cũ. Đã có những tác giả ở trong nước
quay lưng lại với loại văn chương minh họa đã ngự trị suốt nửa thế kỷ trên những
tờ báo chuyên về văn học ở trong nước. Văn
Học là tờ báo đầu tiên ở hải ngoại đã lên tiếng cổ võ cho những tác phẩm
này. Từ số 45 cho tới số 48, Văn Học
đăng tải rải rác một số truyện ngắn và thơ được sáng tác trong buổi phôi thai,
ngay khi lời tuyên bố của ông Nguyễn Văn Linh vừa ráo miệng, để sửa soạn cho số
49 và 50 là hai số chuyên đề về “văn chương phản kháng” ở trong nước. Hai số
báo đó vô hình trung là mục tiêu đánh phá Văn
Học, của những tờ báo coi hiện tượng này chỉ là phản kháng giả, hay là một
đòn đánh phủ đầu của Nhà nước Việt Nam đối với giới cầm bút cả trong cũng như
ngoài nước. Tuy Văn Học không chính
thức trả lời những bài viết đầy ngôn ngữ quy chụp, nhưng một số tác giả khác
không phải trong nhóm chủ trương đã gửi về Văn
Học những bài viết giá trị nhận định về hiện tượng này, như là một hình thức
gián tiếp trả lời cho những công kích đầy ác ý. Và nếu đúng là chế độ ra đòn
như thế, thì quả thật những người cầm bút ở hải ngoại đã trúng đòn, vì cuộc
tranh cãi ban đầu ngôn ngữ còn chừng mực, nhưng càng về sau càng tệ hại, đến độ
giữa một số anh em cầm bút, đã có thời giao tình với nhau, sau hai số báo này
đã không thể hàn gắn được, không thể ngồi chung với nhau trong bất cứ một cuốn
sách nào.
Ngoài Văn Học là tạp chí văn chương chính thức
công nhận hiện tượng văn chương phản kháng ở trong nước, một số các cây bút độc
lập ở rải rác khắp nơi quy tụ lại thành lập Nhà xuất bản Lê Trần, mà tác phẩm
duy nhất: Trăm hoa vẫn nở trên quê hương
đã quy tụ được 27 nhà văn ở hải ngoại, viết về hiện tượng này, và đồng thời
trích đăng tác phẩm của 69 nhà văn, nhà thơ, kịch tác gia và kịch bản điện ảnh
mà tác phẩm của họ gây xôn xao trong nước trong giai đoạn đầu cởi trói cho văn
nghệ này. Hầu như tất cả các cây bút chủ chốt của tờ Văn Học đều đóng góp cho cuốn sách này. Nói cho cùng đây là những
bài còn dư lại của hai số chuyên đề 49 và 50, nhưng đó cũng là một hình thức trả
lời cho những người đã chỉ trích Văn Học hàng
năm trời ròng rã, với những luận điệu quy chụp, thậm chí còn vu khống.
Năm 1990, tôi bị thất
nghiệp. Ở đây tôi xin nói rõ: về tài chánh, tờ Văn Học, hay bất cứ một tờ báo thuần túy văn chương nào, cũng lỗ.
Ngoại trừ tờ Văn của Mai Thảo, được một
nhà in hào phóng in báo với giá tượng trưng chỉ bằng nửa giá in thị trường, và
những người hâm mộ nhà văn Mai Thảo ở rải rác khắp nơi hết lòng ủng hộ. Tất cả
những may mắn đó giúp cho Mai Thảo sống khá ung dung với hai nguồn tài chánh
chính là tiền già và tiền bán báo. Tờ Văn
Học tuy không lời, nhưng với 700 độc giả dài hạn, lúc nào nó cũng đủ tiền
in, tiền tem. Phần lời là báo bán lẻ tại những tiệm sách rải rác trên toàn nước
Mỹ và Canada. Nhưng có nhiều tiệm sách không chịu thanh toán nếu như tờ báo
không có người đến kiểm kê số báo tiêu thụ hàng tháng. Tại Texas có một tiệm
sách suốt hai năm trời không chịu thanh toán tiền báo và sách do Văn Học phát hành, cho tới khi ông chủ
bán tiệm cho người khác, thì số tiền báo đã bán được khoảng hai ngàn đô la coi
như bị xù. Ở đây Văn Học lúc nào cũng
mang ơn chị Thụy Khuê, người đại diện cho Văn
Học ở Pháp và Âu Châu, thỉnh thoảng chị gửi cho một khoản tiền, mà tôi nghĩ
cho dù có bán hết báo mà chị nhận phát hành, cũng không thể được con số đó. Dù
gì chăng nữa thì tờ báo coi như hòa, nhưng thỉnh thoảng có những khoản chi bất
thường ngoài vụ in ấn, thí dụ một bạn văn thường xuyên gửi bài vở cộng tác, bỗng
một hôm đến chơi với anh em vài ngày, thì khoản đãi đằng cơm tây, rượu chát trong
thời gian đó phải móc từ túi ông chủ nhiệm.
Tôi đã làm thợ tiện
được hơn mười năm, việc thất nghiệp ở Mỹ là chuyện bình thường, nếu chịu
khó tìm tòi thế nào cũng có việc lại, nhưng nhân dịp này tôi muốn thay đổi
không khí cho bản thân mình, muốn bỏ nghề và thử tìm một con đường nào gần hơn
với việc viết lách, nên tôi dồn hết tiền bạc mà sở cũ trả cho tôi đâu khoảng mười
ngàn, lên San Jose bỏ thêm vốn vào nhà in Lam Sơn của một ông bạn đã hoạt động
được mười năm, tưởng chừng sẽ có lúc chính tôi sẽ đứng ra in tờ Văn Học. Vì quyết định dời lên phía Bắc
của tôi, Văn Học lại một phen sắp xếp
lại đội hình. Trương Vũ lại một phen từ thủ đô bay về, lần này Trịnh Y Thư là Chủ
nhiệm kiêm Chủ bút, Cao Xuân Huy vẫn là Tổng thư ký. Trịnh Y Thư là một khuôn mặt
mới của Văn Học. Anh đang du học ở Mỹ
thì xảy ra vụ 75, anh có bằng MA và đang làm việc cho một công ty lớn, với số
lương hậu hĩnh hơn trăm ngàn đô la một năm. Không phải vì Trịnh Y Thư khá giả
mà anh bị anh em dồn anh vào chỗ phải chi tiền. Trịnh Y Thư là một người dịch rất
hay, anh là một trong những người dịch Milan Kundera đầu tiên, và Đời nhẹ khôn kham là một bản dịch cực kỳ
hay cuốn tiểu thuyết của nhà văn gốc Tiệp này. Thời gian này vì ở xa, tôi không
có điều kiện để quan sát kỹ những thăng trầm của tờ Văn Học.
Việc làm tiệm in của
tôi rút cục không khá, năm 1991 tôi một mình băng qua sa mạc Mojavie để tiến
sang Texas, tìm một nơi lập nghiệp mới. Trong một năm trời tôi di chuyển qua đủ
bốn thành phố lớn nhất của tiểu bang này là Houston, Dallas, San Antonio và
Austin, làm đủ các nghề vớ vẩn. Khi thì đứng bán ở cây xăng, khi thì đứng bán
cho các tiệm tạp hóa Stop and Go hay tiệm Seven – Eleven. Có lúc lại làm một loại
việc khá giống như bốc vác cho một hãng sản xuất phụ kiện điện tử. Năm 1992 khi
tôi quay trở lại Nam Cali thì mới biết Văn
Học lại một lần nữa sắp xếp lại đội hình. Lần này nhà văn Nguyễn Mộng Giác
quay trở lại vị trí Chủ nhiệm, Trịnh Y Thư là Chủ bút, Cao Xuân Huy không thay
đổi. Một năm sau tôi chính thức đi làm báo và phụ trách trang “Văn Học Ngệ Thuật”
cho tờ nhật báo Người Việt, mà lẽ ra
tôi đã làm một nhân viên của tờ báo này từ số đầu tiên ra đời từ năm 1978. Tôi
nhận chức biên tập viên cho tờ báo này, với mục đích có nhiều thời gian để bắt
đầu viết bộ trường thiên Người trăm năm
cũ. Tờ Văn Học vẫn hàng tháng có
một bữa cơm chung, để các người chủ trương nhận báo mới, hàn huyên với những bạn
văn từ khắp nơi về thăm Nam Cali. Bữa cơm chung này trước kia thường được tổ chức
ở nhà Nhật Tiến, giờ đây nó được tổ chức tại nhà Nguyễn Mộng Giác. Đó là căn
nhà anh Giác đã mua và ở cho đến khi qua đời.
Đầu thế kỷ XXI, khi
internet phát triển cực độ, các trang web ra đời. Các cây viết trẻ đầy sung mãn
và am hiểu tường tận kỹ năng điện toán, đã thiết lập hàng chục trang web chuyên
về văn học. Đồng thời lứa độc giả văn chương của người Việt ở hải ngoại lớp thì
qua đời, lớp thì làm biếng vì tuổi tác, đã khiến cho các tờ báo chuyên về văn học
càng ngày càng tiến gần đến việc đình bản các tờ báo in.
Năm 2003, một buổi
trưa Nguyễn Mộng Giác và Cao Xuân Huy đến chỗ tôi làm việc. Anh Giác có ý định
cho tờ Văn Học đình bản, nên bàn với
Cao Xuân Huy và tôi. Tôi chưa có ý kiến gì thì Cao Xuân Huy đã khẳng khái đứng
ra nhận trách nhiệm chăm nom cho tờ Văn Học.
Và anh đã chăm nom cho nó cho tới khi anh qua đời. Tất nhiên trong giai đoạn
khó khăn này, lại chỉ có một mình xốc vác cho tờ báo, nên Văn Học trước tiên để tiết kiệm tiền in và tiền tem, thay vì phát
hành mỗi tháng một số 120 trang, thì giờ đây hai tháng phát hành một số dày tồi
thiểu là 200 trang và có khi lên tới 250 trang. Trong cơn ngắc ngoải của tờ
báo, vẫn là Trương Vũ đã hết lòng khích lệ, yểm trợ cho Cao Xuân Huy. Số Văn Học cuối cùng sau rất nhiều lần trì
hoãn đã ra đời vào cuối năm 2008. Thế có nghĩa là một mình Cao Xuân Huy xốc vác
tờ Văn Học trong suốt bốn, năm năm
sau cùng.
Mặc dù không ở Mỹ
lúc Cao Xuân Huy qua đời, song tôi biết khá tường tận diễn tiến căn bệnh của
Cao Xuân Huy. Huy phát giác ra mình có một cái u trong mắt một cách tình cờ,
khi đang đánh mà chược với tôi vào năm 2007. Đang xoa bài, đột nhiên anh dụi mắt,
rồi lấy tay che đi một con mắt vài lần, rồi quay qua nói với tôi: “Sao kỳ quá,
con mắt phải của em chỉ nhìn thấy từ ngực bác trở xuống”. Hôm sau Huy đi khám mắt,
hai ông Bác sĩ Việt cho hai định bệnh khác nhau, một ông bảo là nấm, một ông bảo
là có u nhưng không biết lành hay dữ. Nguyễn Thành Quan là bạn thân của Huy và
tôi từ hồi nhỏ, và đã từng là sĩ quan trợ y của QLVNCH thấy vậy chen vào: “Ngày
mai mày đi khám lại ở UCLA Medical Center cho chắc ăn”. Hai ngày sau Huy cho biết
các Bác sĩ của UCLA xác nhận đó là u độc, và ở đây sẽ dùng xạ trị để chữa. Tính
Huy ít nói, trong hai tuần chờ đợi đi điều trị anh vẫn đến xoa mà chược tại nhà
tôi, và không bao giờ có vẻ mặt tư lự hay lo âu. Có điều anh giấu tất cả mọi
người là căn bệnh của anh là một căn bệnh hiếm, hàng ngàn người bị ung thư mới
có một người bị ung thư gần mắt, và quan trọng hơn hết là nếu may mắn xạ trị có
thể khỏi luôn, nhưng nếu không chữa được tuyệt nọc thì nó có thể chạy thẳng lên
óc, hay xuống gan.
Xạ trị xong vài ngày,
anh lại có mặt tại nhà tôi trong những canh mà chược. Cứ như vậy trong hơn hai
năm liền một tuần hai, ba canh mà chược. Các bạn hữu của Huy ai cũng nghĩ là sức
khỏe của Cao Xuân Huy hoàn toàn bình phục. Bề gì thì cũng là Trung oái TQLC, sá
kể gì ba cái cancer vớ vẩn. Khoảng giữa năm 2010, sau khi tái khám định kỳ Huy
cho tôi biết anh bị di căn xuống gan. Khi nói về án tử của mình, anh không hề đổi
sắc, và vẫn một tuần hai cữ mà chược ở nhà tôi. Thời gian này tôi đang sửa soạn
làm đám cưới cho con trai tôi. Hai bố con tôi phải về Việt Nam, vì cô vợ chưa
cưới của cháu là người Việt. Đám cưới diễn ra ở Sài Gòn vào ngày 31-10 năm
2010.
Huy bắt đầu được
hóa trị vào giữa tháng 7. Anh cho biết sẽ có hai đợt hóa trị, mỗi đợt là 6 tuần,
mỗi tuần một liều. Bọn chúng tôi nín thở nhìn Huy mỗi tuần đi chữa bệnh. Trong
sáu tuần của đợt hóa trị đầu, tôi không thấy Huy bị những phản ứng xấu như rụng
tóc, xuống cân… Và đặc biệt là anh có một tinh thần bằng thép, sống hệt như những
ngày trai trẻ, không hề một phút băn khoăn lo lắng về bệnh trạng của mình. Sáu
tuần lễ đầu qua đi, anh vẫn nhởn nhơ cười đùa với bằng hữu. Anh vẫn tự mình lái
xe lên nhà tôi chơi bài. Hết đợt đầu, anh được nghỉ một tuần để sửa soạn hóa trị
đợt hai, cũng sáu tuần lễ nhưng liều lượng gấp đôi. Đầu tháng 10, tôi phải về
Việt Nam, lúc đó Huy đã chịu hai liều của đợt hai, ngoài vẻ mặt bình thản bên
ngoài, tôi biết anh đau đớn dữ dội bên trong, vì có lần tôi hỏi Huy về bệnh trạng
trước khi tôi sẽ đi xa thì được anh cho biết: “Người ta cứ nói đau xé gan xé ruột,
không ăn thua gì vì em đang đau xé từng thớ thịt, bất cứ một thớ thịt nào từ
trên đầu xuống tới chân giống như bị một bàn tay vô hình xé vụn ra”. Có một điều
lạ là anh không bao giờ lộ vẻ đau đớn, đặc biệt là trước mặt vợ và hai cô con
gái, lúc nào anh cũng cười và còn bông đùa cho không khí trong nhà bớt căng thẳng.
Ngày 15-10 năm 2010
tôi chia tay với Huy để về Việt Nam làm đám cưới cho con trai. Trong một bữa
cơm tiễn tôi đi tại nhà Nguyễn Kỳ Hùng, cả hai vợ chồng Huy cố tham dự. Lúc này
anh đã không lái được xe, khi chia tay ra về tôi thấy Huy lảo đảo, nhưng anh gạt
phắt tay của một người bạn có ý định dìu anh đi. Anh nói với tôi giản dị: “Khi
bác sang chắc là em không còn hiện diện trên cõi đời này. Thôi chúc bạn mọi điều
tốt lành”. Đáng lẽ tôi là người sẽ phải nói những lời chúc tụng sức khỏe cho
Cao Xuân Huy, thì anh đã chúc tôi trước, mà qua nội dung những lời cuối của
anh, những lời chúc tụng của tôi sẽ trở thành vô nghĩa. Sau khi tôi đi
khoảng mười ngày thì Huy mất. Anh sinh năm 1947, mất năm 2010 hưởng thọ 63 tuổi.
Năm 2004 Nguyễn Mộng
Giác đi mổ lần đầu vì ung thư. Từ đây sức khỏe của Nguyễn Mộng Giác không còn
như cũ. Năm 2008 anh về VN để chịu tang cùng an táng bà mẹ, trước khi lên máy
bay về lại Mỹ anh bị đột quỵ, rồi kế đó anh bị mổ lần thứ hai vào năm 2009. Những
năm cuối cùng của anh giống như là ngọn đèn sắp cạn dầu mà còn bập bùng trong
gió. Gần đây anh phải vào ở trong một nhà dưỡng lão, vì không thể tự mình săn
sóc cho mình, thành thử chị Diệu Chi có nhà mà hầu như không ở, cứ lẩn quẩn nơi
anh nằm bệnh. Mới đây trong dịp trở lại Mỹ vào tháng 4 và tháng 5 năm 2012, tôi
hai lần điện thoại để ghé thăm, nhưng không một ai bốc điện thoại trả lời. Tôi
cũng lái xe đến bất ngờ hy vọng có ai ở nhà, để tôi chuyển lời thăm hỏi, song
không một ai có nhà. Sau cùng việc gì đến đã đến, Anh qua đời vào ngày 3 tháng
Bảy, năm 2012 tại nhà riêng, hưởng thọ 72 tuổi.
Sau cùng xin thông
báo với các độc giả của tờ Văn Học:
Địa chỉ của tòa soạn
hiện nay đã dời lên thiên đường từ năm 2008. Để tiện việc điều hành tờ báo, mới
đây hai vị chủ nhiệm đầu tiên và sau cùng cũng đã dời về đó. Cho dù trong khi sống,
nhà văn Nguyễn Mộng Giác và Cao Xuân Huy có thể làm phật lòng một số người, vì
quan điểm văn chương, hay chính trị. Nhưng nghĩ cho cùng, sự khác biệt về quan
điểm không bao giờ là một tội lỗi, càng không thể là một tội ác. Nghĩ cho cùng
một nhà giáo hết lòng với học trò của mình, một nhà văn hết lòng với độc giả của
mình, một người lính hết lòng với nhiệm vụ của mình sẽ có một chỗ ở nơi thiên
đường. Nếu như thiên đường là một nơi có thật.
Sài Gòn 8 - 7 - 2012
H. K. P.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét