Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2009

Hàng hiệu, biết gì ghi nấy

“…Tiền công may một áo sơ mi xuất khẩu chỉ 1 USD, bằng 2-3% giá bán là 30-50 USD. Tiền công may một bộ vét tông xuất khẩu chỉ 6 USD, so với giá bán 300 tới 600 USD chỉ chiếm từ 1 đến 2%...”, bạn có đọc những đoạn này vào ngày 19/11 năm ngoái trên mặt báo?

Thưa thầy kính mến, 50 USD thầy có thể mua được khoảng 3 chiếc áo sơ mi ở Robinson bên Sing, loại 60% cotton và chỉ 1 ply, và tất nhiên vào dịp sale off năm 2 lần với những brands loàng xoàng đính vào cho có mác. Còn 2 ply, 100% bông, new arrival ở Takashimaya hay trong các boutiques của Paragon thì phải ít nhất là 3 ông Grant. Vét tông xuất khẩu thì tùy, gặp đợt clear stocks thì chỉ 1 bác Franklin thôi cũng được, nhưng với 600 đô thì em chắc không dám chạm tay vào mấy cái ve áo loại tầm tầm Brooks Brothers để xem cái chất liệu len làm 100% lông cừu nó mềm, mát, mịn thế nào và chắc cũng chỉ “ực” một cái rồi cắm cúi đi ngang Dunhill shop. Ấy là em chỉ dám nói về hàng “ready wear” mà cái tạng người Việt thế hệ sinh ra vẫn đang ùng, oàng như em khó kiếm được size nào vừa, còn “bespoke” thì có khi phải đến 5 lần số cao nhất thầy đề cập mới dám tự tin “ I’d like….”. Chưa hết đâu thầy, thấy có thấy bộ vét của anh Bill hay bác Bush mặc hôm lễ đón chính thức nó có “vừa vặn” hơn cái-của-nhà ta không, bọn Tây nó gọi là “Haute couture” thầy ạ, và em tò mò dò hỏi (cho biết mà thôi) thì thấy bảo giá một bộ kiểu hau-cốt-tơ ấy thường không dưới 5 chữ số. Kể cũng buồn thầy nhỉ, cả năm lăn lóc, lê lết làm culi chỉ đủ mua được bộ đồ lớn của người ta. Mà đấy là bọn em được chị Cúc bên Tổng Cục Thuế xếp vào nhóm có thu-nhập-cao nên phải thu bớt đi cỡ gần hai chục phần trăm kẻo (chắc là theo anh Ninh với chị Cúc) tiền nhiều quá lại sinh hư. Em cứ băn khoăn lương được-cho-là cao thế mà mấy năm vẫn chẳng đổi được xe, nhà may quá bố mẹ cho nên có chỗ tối chui vào sáng chui ra, bottom line cả năm nhìn mà cứ nghĩ tính nhầm hay ngân hàng chưa ghi Có khoản lương tháng 13+thưởng; thế mà sao các vị đầy tớ (level còn thấp hơn thầy vài ba bậc) thu-nhập-trên-sổ-sách chắc chắn chỉ bằng già (non) nửa của em thắt lưng buộc bụng chi tiêu kiểu gì mà kết-dư-cuối-kỳ nhờ bọn em chuyển ngân lậu sang bên kia nhiều thế ạ?

Thoạt tính thì đúng là vô lý thật, mẹ bố bọn Tây nó bóc lột đến tận xương sườn công nhân lao động ở mấy nước nghèo lấy công làm lãi như mình. Lòng tự ái dân tộc pha với tự mãn cá nhân “đế quốc, thực dân to nhất quả đất người Việt ông còn đánh được thì nhằm nhò gì ba cái chuyện làm-hàng”, thế nên một anh làm kim hoàn gốc xứ Thanh hoa tay rất khá tung ra một serial đồ trang sức như trâm cài đầu có gắn ruby giá để 5 ngàn, cây bút bi vàng 18K cẩn viên đá quý khắc dòng chữ CUU LONG trên nắp cài bút cũng quất gần chục ngàn Mỹ, logo nhang nhác Louis Vuitton với mấy chữ CL lồng nhau xiên chéo. Hình như me-xừ này khoái Kim Dung nên cửa hàng (phải gọi là boutique mới đúng độ sang) trên đường Đồng Khởi quận I Saigon ngoài cửa là 2 chàng vệ sỹ complete đen, kính đen chắp tay trước bụng trông hãi vãi, trong cửa kính mát rượi sáng choang là 2 em chân rõ dài váy cưới trắng tinh diện hết ngày này sang ngày khác. Thì tò mò cũng vào một cái cho nó biết thôi, chứ (giá thử) có tầm ấy tiền để mua thì vào béng nhà Catier cho nó yên tâm không “lúa” hay làm vài ba cái limited collection của Montblanc fountain pen đảm bảo không phải vừa viết vừa vẩy hay ghì bi vì mực tắc. Để đạt tầm hàng hiệu hình-như-là không hẳn chỉ bởi đắt tiền và dùng nguyên liệu quý???. CL không phải là ví dụ duy nhất đâu, một đại gia khác trong ngành tơ lụa kiêm địa ốc kiêm nhà hàng chơi xe RR đầu tiên ở Việt nam tự PR trên một tờ tạp chí về hàng Luxury “theo thống kê 60% người Việt nam dùng cà vạt của K, lụa dệt 4 lớp bí quyết riêng và cắt xéo…” . Ối giời, nhà ấy mà dệt lụa 4 lớp ở Việt nam để may cà vạt thì nhiều người đi đầu xuống đất, còn con số 60% kia thì nhừng các bạn đang đọc đoạn này thẩm định dùm.

“Khoe của, thừa tiền, dởm đời…”, sẽ có kha khá người đọc bình luận những câu đại loại vậy. Nếu bạn gạt lớp nước béo ấy đi, và xem hàng-hiệu cũng chỉ là một thú chơi kiểu một cây mai cổ đấu giá lên tới gần 1 tỷ cũng chỉ nở hoa vàng năm cách (sáu là cực hiếm, và năm ấy sẽ có rất nhiều sự may) vào dịp xuân về đâu khác gốc mai tứ quý bỏ rơm bỏ cỏ góc vườn vẫn nở hoa suốt cả năm; thì biết đâu đấy lại sẽ có thêm một vài con nghiện hàng hiệu mới. Người viết có biết một lão nghệ sỹ nhân dân bốn mùa chỉ độc diễn mấy bộ quần áo nhìn rất tuyềnh toàng nhưng bộ (chả biết sưu tập hay cũng chỉ thích thì chơi) bút máy với bật lửa của cụ nhìn mà khiếp đảm: Zippo bốn năm chục cái, St Dupont vàng ròng cũng có, Dunhill không vắng mặt còn khoản viết thì có dễ vài chục cái Montblanc từ loại cổ điển tới ngôi sao đi bội đang nằm khiêm tốn cạnh Catier với Caran d'Ache. Tầm ông cụ chắc chả việc gì phải vướng vào mấy cái bình luận ở đầu đoạn này rồi, “tớ thích bút viết phải là dào dạt mực”, chả biết ông cụ nói đến loại bút nào đây??? Cũng lại một đôi lần có dịp đứng sau ngắm chủ tịch một hãng đóng tàu bậc nhất Việt nam mình ký mấy cái thỏa thuận về tài trợ vốn thấy đại ca này vẫn dùng một cái bút no-name, chủ tịch HĐQT tập đoàn kiểu này chắc chả thèm nhận tiền lẻ dưới dạng phong bì thì gì chứ “tuyệt tác của nghệ thuật viết chữ” chắc không bằng con muỗi; nhìn bộ gậy golf của bác là đủ choáng rồi; thế mà sao Montblanc hay Waterman không có được bác này trong danh sách khách hàng VIP nhỉ?

Cũng có những món hàng hiệu nghĩ nát óc chẳng hiểu được tại sao lại được xếp vào đồ luxury, tỷ như điện thoại Mobiado có khung làm từ thứ gỗ gì nghe nói hiếm lắm tới mấy chục ngàn đô la một khối. Tầm hơn 2 năm trước trong một dịp ngồi gần đại gia H “nùn” một trong số 100 người giàu nhất Việt nam từ 2006 thấy bác ấy vứt đánh uỵch một cái vuông vuông, nâu nâu có hình con sư tử lên bàn thì cũng đánh bạo chạm thử vào xem nó ngô khoai thế nào mà tới mấy ngàn đô Mỹ lận. Vẫn nhớ màn hình đen xám nhờ nhờ, chức năng chả có gì khác cái N6230 hồi đó đâu độ vài ba trăm đô (để so sánh cho nó tiện về đơn vị tiền tệ chứ người viết vẫn quen cầm đũa hơn dao/dĩa và thấy muống luộc vắt chanh cốm ngon hơn chán vạn lần súp măng tây cua). Gỗ có đắt đến mấy thì đắt chứ đã cắt gọt làm đ.thoại rồi thì có như kim loại quý quái đâu để nấu ra tái chế, thế thì sao lại đắt và xếp vào nhóm luxury goods???

Chưa dùng hàng hiệu thì có khi lại chả sao, có rồi nhiều lúc lại thành chuyện tiếu đàm cho những người “sành” bình luận. Bật lửa Zippo thì ngon rồi (ghét cái phải châm đúng xăng của bọn zippo cơ, đổ cái khác là đếch bao giờ có lửa) nhưng giả tỷ là một bro nào đó ngồi cũng bàn trong một lounge hay club bỏ ra hộp xì gà mời, sau cái xoay xoay cắt đầu điếu thuốc mà chủ nhân của cái Zippo kia lại xoẹt một phát lửa ra châm thì chắc… vứt mẹ nó điếu xì gà đi được vì hơi xăng làm hỏng vị. Xì gà lại cứ phải dùng diêm, cùng lắm là anh bật lửa ga tàu vài nghìn một cái mới đôi lứa xứng đôi kiểu cọc cạnh như Tiên Dung với Chử Đồng Tử cổ tích một thời. Cũng chả mấy ai hút xì gà mà lại uống bia hay vodka hay Whisky dù có là với Giôn xanh thượng hạng, và tôi thì không hút thuốc nên cũng chả biết tại sao, chỉ thích ngắm khói xì gà xanh lơ rất dịu.

Khoảng hai chục năm về trước người Việt mình trong hành lý xuất khẩu lao động sang Đức, hay cả trí thức đi làm candidate ở CCCP đều có ít chục cái áo phông cá sấu nhập từ Thái về, mấy cái áo Nato, ít bộ Ki-mô-nô và không thiếu mấy cái quần bò coi như làm vốn. Hè dạo ấy mà mặc mấy cái áo pull cá sấu sọc ngang, diện thêm cái quần bò đi cái xe cuốc thì các em tha hồ mà xuýt xoa ngưỡng mộ. Rồi tự nhiên bặt đi cả chục năm không thấy áo phông cá sấu, các shop tràn ngập Addidas, Nike với CK. Vài năm nay lại thấy Lacoste tái xuất, đâu những gần trăm ngàn VNĐ một cái “hàng may xuất khẩu thừa, xịn đấy”. Áo sơ mi với thun Polo có logo hình con ngựa lông lên cũng nhan nhản với giá trên dưới trăm ngàn. Vợ đi vào mấy chỗ bán quần áo tiện tay mua cho chồng vài cái, thì mặc thấy nó cũng mát chứ chết Tây nào đâu. Túi xách/ví đầm in nhãn Channel, Catier, Gucci, Louis Vuitton, Hermes… thiết kế thì đẹp rồi nhưng bán ở Quảng Châu, Thượng Hải, Bắc Kinh đắt lắm cũng chưa quá 500 tệ nên chị em mua cả chục cái về dùng, tặng cả mấy con bạn thân cho nó thêm bền tình cảm. Tụi Tây “sành” sống ở Việt nam nhìn cảnh ấy cũng chỉ biết lắc đầu. Nào đã có nhiều ai biết đâu một cái áo Lacoste thật được dệt từ gần 20km sợi (hai mươi cây số là chiều dài sợi vải của một cái Lacoste) và mặc ít khi dúm khuy cổ cuối cùng, giá bán của nó cũng khủng long, khoảng 8 lần hàng-xuất-khẩu-còn-dư và mặc thì mồ hôi có vã ra khi đánh vợt cũng không thấy dính. Hay Louis Vuitton chưa bao giờ có bán sales và chỉ bán hàng qua các boutique thuộc sở hữu của mình. Để tôi kể nốt chuyện này, thủ đô Phnom Pênh của Campuchia có một chợ tên tục là “Russian market” chuyên bán mấy thứ quần áo kiểu “may-xuất-khẩu-thừa/lỗi” dạng này, Tây ba lô đến đó cũng nhiều nhưng họ hình như rất ít mua, đám bán hàng gốc Miên nói tiếng Việt leo lẻo nhìn thấy người mình là đoán ra ngay “hàng xịn đấy, mua đi, rẻ lắm”. Cái thằng Tàu trông thế mà thâm, xoành xoạch cắt may ở Đại lục, shipped hàng sang Cao Miên lập lờ đánh lộn con đen để bán đến end-users người Việt vì tiếng hàng Tàu dân mình chán quá rồi.

Có một thứ “hàng hóa đặc biệt” của người Việt được xếp vào nhóm hàng luxury mà người viết đến giờ này vẫn còn thấy nhục, bạn đoán được ra điều gì không? Gần cuối năm ngoái tôi có một đợt đi vài tuần đến đất nước có số dân theo đạo Hồi lớn nhất Asean, theo đạo Hồi đấy nhưng bia rượu bán xả dàn và dù có là Islamic đi thì vẫn ngồi nhâm nhi món có cồn công khai chứ không lén lút thậm thụt sợ cảnh sát tôn giáo như mấy ông Pakistan hay Bangladesh. Hôm ấy việc cũng vãn, mấy thằng cả thổ dân cả ngoại bang rủ nhau đi xả hơi một tí sau bữa cơm chiều. Malioboro, tên cái complex ấy có đủ từ Fitness centre đến Whirpool, Bar & Restaurant, Theatre & Massage & Reflexi.. nói tóm lại là quý ông cần gì đây có tuốt. “Uzebekistan, Chinese & Vietnamese girl 1,250,000 rupi, local girl 500,000 rupi”, má mì gốc Tàu leo lẻo. Và ở Jakarta theo tôi biết thì không chỉ chỗ này mới có gái Việt nam.

Dân nghiện hàng-hiệu thường vẫn rủ rỉ với nhau “đồ bán ở Việt nam làm sao chất lượng bằng mua ở bên kia được”. Tôi không sành lắm về món luxury goods, chỉ thấy riêng nước hoa và mấy thứ mỹ phẩm của phụ nữ/đàn bà thì đúng là dù có bán ở Parkson hay các loại Plaza đúng là khác hẳn đồ xách từ nước ngoài về, nên cũng chỉ nghe để biết thôi, chả dám bàn nhiều. Và vì đức tin đã để ở bên bển mất rồi, vé tàu bay càng ngày càng rẻ nên chuyện tín đồ hàng hiệu cuối tuần bay sang đó mua sắm rồi về chả còn là chuyện lạ. Đi thì dễ rồi, visa bây giờ cũng chả cần ở đa phần các nước loanh quanh nhưng mua hàng hiệu bằng gì nhỉ thì lại là một chuyện khác rồi. Mua bằng tiền chứ bằng gì, hỏi vớ va vớ vẩn! Dạ thưa không ạ, ít ai mua hàng hiệu bằng tiền, dù là đồng Bảng Anh hay Euro rất mạnh.

(Bài sưu tầm trên mạng không rõ nguồn, đăng trên blog để giải trí cuối tuần)

Thứ Hai, 23 tháng 11, 2009

Sống và viết như những người lưu vong

Lưu vong, theo tôi, bao giờ cũng được mở đầu bằng một bi kịch chính trị và kết thúc bằng một bi kịch văn hoá. Càng ngày tôi càng thấm thía một điều: sống và viết ở hải ngoại không phải chỉ là sống và viết ở hải ngoại. Khi một nhà văn rời quê hương ra định cư và sáng tác ở nước ngoài, hắn không phải chỉ thay đổi một chỗ ở và một bàn viết mà còn thay đổi hẳn một thế giới với những mối quan hệ chằng chịt, phức tạp, để rồi, một cách tự giác hay không, dần dần thay đổi cách nghĩ, cách cảm, từ đó, cách viết và cuối cùng, không chóng thì chầy, thay đổi cả căn cước (identity) của chính hắn với tư cách là một nhà văn nữa.

Trước hết, trong quan hệ với đất nước, với người đang sống ở hải ngoại, quê hương chỉ còn là một nỗi nhớ mà nỗi nhớ nào thì cũng có khả năng biến mọi thứ thành quá khứ và mọi hình ảnh đều trở thành lấp lánh đẹp. Hơn nữa, nỗi nhớ nào, khi dẫn con người đi ngược chiều thời gian, cũng đều cắm neo vào một không gian nhất định: nhớ một thời, thực ra, bao giờ cũng là nhớ một nơi. Trong Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng, chẳng hạn, không có nỗi nhớ nào lại không gắn liền với cảnh vật, với phong thổ, với các yếu tố địa lý. Trong tập Du côté de chez Swann của Marcel Proust, mặc dù nói là đi tìm thời gian đã mất (A la recherche du temps perdu), nhân vật chính chỉ loay hoay tìm kiếm mãi hình ảnh một cái làng, làng Combray. Bởi vậy, nghĩ cho cùng, văn học lưu vong nào cũng ít nhiều mang tính chất ‘miệt vườn’. Giũ bỏ tính chất ‘miệt vườn’ ấy bao giờ cũng là một thách đố lớn cần nhiều quyết tâm lớn và tài năng lớn.

Thoát ra khỏi ngục tù ở quê hương, tuyệt đại đa số người lưu vong, đặc biệt là giới cầm bút, thường rớt ngay vào nhà tù của trí nhớ. Nhà văn Mai Thảo, trong lá thư toà soạn nhân ngày kỷ niệm đệ nhị chu niên của tạp chí Văn tục bản tại Hoa Kỳ, năm 1984, đã viết, chân thành:

người chủ nhiệm tạp chí dẫu đã sáu năm trên đất này, dẫu đã hai năm Văn, vẫn không sao kiếm tìm được cho chính hắn một tâm thức ổn định. Mà tấm lòng vẫn trại đảo, suy nghĩ vẫn trôi dạt, ý niệm vẫn lưu đày. [...]. Người ta không thể sống hoài bằng trí nhớ. Hắn thừa hiểu vậy. Nhưng chân trời mới nhìn thấy nào cũng vẫn từ một chân trời trí nhớ. ‘Người ta chỉ có vĩnh viễn những gì đã mất đi vĩnh viễn.’ (Ibsen). Vậy sao? Chừng như là vậy thật. [...]. Tâm thức bất ổn định, chối từ thanh bình đưa dẫn tới hình thành một giòng văn chương từ chối mọi khí hậu mọi biểu hiện thanh bình cũng là tâm thức chung của hầu hết bằng hữu và những người viết mới đã tới với Văn từ tục bản.[1]

Là tù nhân của quá khứ, tâm lý lưu vong là một thứ tâm lý bảo thủ. Điều người lưu vong không thể cảm nhận nổi là ý niệm về sự vận động trên quê hương mình. Tôi hiểu lý do tại sao Từ Thức hay Lưu Thần, Nguyễn Triệu lại bàng hoàng khi từ thiên thai trở về quê cũ: chủ yếu là vì sự sai nhịp về thời gian. Sự sai nhịp ấy không xuất phát từ sự kiện ngày tháng ở cõi tiên dài hơn trong cõi tục mà xuất phát từ tâm lý khư khư ôm giữ những hình ảnh cũ của người xa xứ. Đối sánh với những hình ảnh hoá thạch ấy, thực tại nào cũng trở thành lạ lùng. Cũng gây kinh ngạc. Cũng khiến sững sờ.

Mất ý niệm về sự vận động, sự ra đi nào cũng có nghĩa là một sự dừng lại. Hồi ở Pháp, gặp một số đồng hương gốc Quảng Nam đã ở Pháp hàng ba, bốn chục năm, và suốt ba, bốn chục năm ấy chủ yếu sử dụng tiếng Pháp, tôi kinh ngạc nhận thấy giọng Quảng Nam của họ thuần chất đến độ rất khó tìm thấy trên đất Quảng Nam sau này: trong khi suốt mấy chục năm vừa qua, người dân ở Quảng Nam có vô số cơ hội để tiếp xúc với những giọng nói khác, ngoài xã hội cũng như qua hệ thống truyền hình và truyền thanh, để tính chất địa phương trong giọng nói của họ càng ngày càng nhạt đi, những người đã đi du học từ lúc 17, 18 tuổi, hoàn toàn không có những tiếp xúc như thế, không hề chịu bất cứ ảnh hưởng nào từ bên ngoài. Giọng nói của họ là một thứ giọng địa phương nguyên chất. Trong lãnh vực văn học cũng có hiện tượng tương tự. Nhiều người, sống lâu năm ở nước ngoài, về phương diện xã hội, rất hiện đại và rất Tây phương, nhưng khi cầm bút, từ cảm xúc lẫn ngôn ngữ của họ đều thấp thoáng rất nhiều hơi hướm của Thơ Mới và Tự Lực văn đoàn, những trào lưu thịnh hành hoặc còn nhiều vang bóng lúc họ chưa rời Việt Nam. Ngay cả ở những người tài hoa nhất trong họ, nếu may mắn thoát khỏi hiểm hoạ của cái sáo thì cũng có cái gì đó cổ kính, điều rất hiếm thấy ở những người cùng lứa tuổi và cùng tầm nhận thức đang sống trong nước. Từ kinh nghiệm này, chúng ta không nên khinh thường nhận xét đã được nhiều người phát biểu: văn học hải ngoại là cánh tay nối dài của văn học miền Nam trước năm 1975. Nếu điều đó chưa phải là một hiện thực thì ít nhất nó vẫn là một nguy cơ.

Nguy cơ rõ nhất và cụ thể nhất là việc tiếp nhận cái mới trở thành vô cùng khó khăn dù về phương diện khách quan, chúng ta có đầy đủ tất cả những điều kiện cần thiết khiến những người trong nước phải thèm thuồng. Ngoái về quá khứ, các cây bút lưu vong ít khi đóng được vai trò tiên phong. Nếu ví nền văn học hay văn nghệ hải ngoại nói chung với một trận bóng đá, thì đó là một trận bóng thường chỉ có các hậu vệ và thật nhiều thủ môn, ở đó chiến thắng được tính bằng những lần bắt bóng chứ không phải bằng những lần làm bàn. Một trận đấu kì dị. Quái gở. Và tuyệt vọng.

Mối quan hệ với quê gốc như thế làm cho quan hệ giữa những người lưu vong với miền đất mới định cư trở thành vô cùng gian truân: chúng ta bị phân thân giữa quê cũ và vùng đất mới, giữa tình cảm và lý trí, giữa quá khứ và hiện tại, giữa hoài niệm và hoài bão. Chúng ta đầy mâu thuẫn: chúng ta vừa sùng bái Tây phương lại vừa sợ bị Âu hoá; chúng ta vừa hết lời ca ngợi truyền thống văn hoá dân tộc lại vừa không ngớt đay nghiến, bỉ thử nếp sống đậm màu sắc truyền thống của cộng đồng người Việt ở khu Bolsa bên Mỹ, khu Paris 13 bên Pháp hay khu Cabramatta và Footscray ở Úc; đối diện với người ngoại quốc, chúng ta khăng khăng muốn làm một người Việt Nam, nhưng khi đối diện với đồng bào của mình, chúng ta lại cứ muốn làm người... nước ngoài. Chúng ta thường nghi kỵ một cách quá đáng những nhà văn viết bằng tiếng Việt chịu ít nhiều ảnh hưởng của Tây phương dù đó là những tài năng lớn trong khi chúng ta lại vồ vập một cách quá đáng một số cây bút trẻ viết thẳng bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp, dù chưa có gì hứa hẹn đó sẽ là những tài năng thực sự.

Hậu quả của sự phân thân ấy là những người lưu vong bị biến thành những người đứng bên lề. Với sinh hoạt văn học trong nước, chúng ta là những người đứng bên lề. Dù tài hoa đến mấy, vẫn là những người bên lề. Với sinh hoạt văn học ở quốc gia chúng ta đang sống, chúng ta cũng lại là những người đứng bên lề, một thứ nhà văn sắc tộc khiêm tốn và buồn thảm, đứng bên lề những sinh hoạt chính mạch của thiên hạ. Do đó, có thể nói, không có ai cô đơn cho bằng nhà văn lưu vong. Cách đây mấy năm, một số người cầm bút ở hải ngoại hô hào phá bỏ những ghetto trong sinh hoạt văn học. Ừ, thì phá bỏ. Nhưng chưa ai đặt câu hỏi: phá bỏ những ghetto-việt-nam ở hải ngoại rồi thì giới cầm bút sẽ đi đâu, sẽ nhập vào đâu?

Nhập vào văn học thế giới ư? Ai mà chả muốn. Nhưng đó là một con đường hết sức cheo leo. Một là, để sử dụng một ngoại ngữ như một ngôn ngữ văn học (chứ không phải một ngôn ngữ giao tiếp) không phải là một điều dễ. Nhà thơ Joseph Brodsky, giải Nobel văn chương năm 1987, sau mấy chục năm ở Hoa Kỳ, khi viết tiểu luận thì viết bằng tiếng Anh nhưng khi làm thơ thì cũng vẫn tiếp tục làm bằng tiếng Nga rồi người khác dịch ra tiếng Anh. Hai là, sau hàng rào ngôn ngữ là hàng rào văn hoá. Bất cứ cộng đồng ngôn ngữ nào cũng hà tiện khả năng đồng cảm và bộ nhớ của nó đối với những người ngoại tộc, bởi vậy, ở đó, kiếm được độc giả đã khó, kiếm được những độc giả tri âm lại càng cực khó. Tôi có một số bạn bè người Úc đã đọc và rất thích Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài qua các bản dịch tiếng Anh, thế nhưng, có khi chỉ một vài tháng sau, trong những lúc tán gẫu, tình cờ tôi nhắc đến Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, họ có vẻ ngơ ngác, phải đợi giải thích thật chi tiết, họ mới nhớ ra đó là những tác giả họ từng ái mộ. Ngược lại, tôi cũng gặp không biết cơ man nào những người Việt Nam cứ hễ nhắc đến văn chương Việt Nam đương đại là nhắc đến Phạm Thị Hoài và Nguyễn Huy Thiệp, có khi để khen ngợi mà cũng có khi để đả kích, mặc dù, theo sự ước đoán của tôi, may lắm họ chỉ đọc loáng thoáng đâu đó một hai truyện ngắn của Phạm Thị Hoài và Nguyễn Huy Thiệp là cùng. Bởi vậy, tuy người Việt Nam nào cũng thèm thuồng khả năng viết tiếng Pháp của Nguyễn Tiến Lãng hay của Phạm Văn Ký nhưng thành thực mà nói, tôi tin là ngay cả một nhà văn Việt Nam trung bình cũng có nhiều tri âm hơn hai người ấy. Đi vào một sinh hoạt văn học không phải của dân tộc mình, người ta, nếu không phải là một đỉnh cao thì rất dễ có khả năng sẽ không là gì cả ngoài cái việc được đăng tải và được xuất bản.

Mà đỉnh cao bao giờ cũng là những ngoại lệ. Số lượng những nhà văn sử dụng song ngữ thành công trên thế giới chỉ là hoạ hoằn, dù con số thử nghiệm có thể lên đến hàng chục ngàn, thậm chí, hàng trăm ngàn. Còn lại, tuyệt đại đa số, dù muốn hay không, cũng làm tù nhân chung thân của tiếng mẹ đẻ của mình, cũng chỉ quanh quẩn trong sân chơi nho nhỏ của cộng đồng mình, và đứng bên lề những hội hè, đình đám văn nghệ quốc tế.

Dĩ nhiên, chẳng ai vui gì cái cảnh đứng bên lề. Bởi vậy, phần lớn những người cầm bút lưu vong hay bị day dứt cái mặc cảm tự ti, không những tự ti với dòng văn chương chính mạch ở quốc gia mình định cư mà còn tự ti với cả dòng văn học chính thống ở cố quốc. Chính từ những mặc cảm tự ti ấy, bao nhiêu thần tượng giả đã ra đời. Trong cách cảm thụ và cách đánh giá văn học của phần lớn người cầm bút hải ngoại, đặc biệt là đối với văn học nội địa, tôi thấy thấp thoáng cái mặc cảm của những chú lùn. Tội.

Sống và viết lách bên lề, những cây bút lưu vong tìm vui trong cái cộng đồng nhỏ bé, càng ngày càng nhỏ bé của mình. Đã nhỏ bé, lại còn lạnh lẽo nữa. Trong sinh hoạt văn học hải ngoại, có lẽ trừ các chủ bút, không có người cầm bút nào có được sự tiếp xúc trực tiếp, thường xuyên và cụ thể với độc giả. Và cũng không ai cần độc giả: sách, báo thường bán không được bao nhiêu; mà cho dù bán được khá thì cũng không đủ nuôi người cầm bút. Đáng lẽ sự kiện này có thể giúp nhà văn trở thành độc lập và dễ trở thành độc đáo. Sự thực ngược lại: phần lớn cứ đứng nem nép vào nhau. Điều đó khiến nền văn học lưu vong có nét gì hao hao nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa: cả hai đều có tính tập thể rất cao.

Sự kiện đứng bên lề và sự kiện xa cách tuyệt đối với độc giả khiến khái niệm ‘danh vọng’ trở thành hão huyền: ngay cả những người xuất sắc nhất trong chúng ta cũng chỉ ‘nổi tiếng’ trong một phạm vi thật nhỏ, chủ yếu với một nhúm bạn bè và những người quen biết. Theo tôi, đây là lý do chính giải thích hiện tượng tại sao có một số cây bút rõ ràng là có tài năng nhưng chỉ đến với văn chương một thời gian ngắn rồi chia tay không một chút luyến tiếc. Nhà văn Nguyễn Mộng Giác, trong bài "Triển vọng của văn học hải ngoại", đã từng ngạc nhiên trước hiện tượng này. Ông tự hỏi: "Vì sao thế?" Rồi ông nói thêm:

Tôi hỏi, vì biết cái ma lực của chữ viết, nhất là lúc đã thành chữ in và tới được tay bạn đọc. Chữ viết trên bản thảo định hình được những điều mông lung rối rắm chất chứa trong lòng tác giả, những điều tác giả tưởng đã biết rõ nhưng thực ra không biết nhiều, đến nỗi khi thành chữ, chính tác giả cũng kinh ngạc ngỡ ngàng. Từ chữ viết dập xoá trên bản thảo sang chữ in ngay ngắn trên trang sách, lại có sự biến ảo kỳ diệu khác. Tiếng vọng từ phía bạn đọc mang cho tác giả những dư âm đa dạng kỳ thú (hay kỳ dị), đưa cả tác giả lẫn tác phẩm vào một cuộc phiêu lưu mới. Những đợt sóng ấy tiếp nối, đợt sau đẩy đợt trước, người cầm bút miên man hết cuộc phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu kia, thấm thoắt theo nghiệp văn vài chục năm lúc nào không hay.[2]

Trong câu hỏi của Nguyễn Mộng Giác đã có sẵn câu trả lời. Thời ông cầm bút ở Việt Nam, những tiếng vọng liên tục từ phía độc giả có khả năng tạo nên những "dư âm kỳ thú (hay kỳ dị) đưa cả tác giả lẫn tác phẩm vào một cuộc phiêu lưu mới." Còn ở hải ngoại thì làm gì có những tiếng vọng như thế? Ở hải ngoại, đăng một bài viết trên báo hay in một cuốn sách, nhiều lúc ngỡ chừng như nói vào ống điện thoại chưa nối đường dây. Lặng ngắt. Không nghe gì cả, kể cả một lời chê, một tiếng chửi, cũng không có. Hoàn toàn lặng ngắt.

Viết văn, ngày xưa, là một danh phận; sau này, vừa là một danh phận vừa là một nghề nghiệp. Ở hải ngoại, viết văn không thể là một nghề nghiệp mà trên thực tế, cũng không còn là một danh phận. Viết văn trở thành một cách hành lạc đau đớn của những người bị bất lực.

(Nguồn: Tienve.org)

P/S: Thấy cái bài này trên blog BEO hay nên tìm bài gốc đăng lại nguyên văn.

Thứ Năm, 19 tháng 11, 2009

FAQ về việc chính quyền VN chận Facebook

Tin tức về việc Facebook bị ngăn chận không cho sử dụng tại Việt Nam gây ra nhiều hoang mang. Sau đây là những chia sẻ của tôi về sự việc này.

Tóm gọn lại nhận định của tôi là:
 Có – Facebook có bị chận lại bởi các ISP tại Việt Nam theo lệnh của chính quyền
 Có – Có cách vượt qua để vào Facebook.
 Không – Tuy nhiên vậy cũng chưa đủ.
 Có – Việc chận này thật là cà chớn.

Vào Facebook gặp trở ngại gì ở Sài Gòn (Tp.HCM) ?

(Theo wikipedia) Kể từ 4 tháng 11, 2009 các ISP lớn như SCTV/VDC và Viettel chận không cho vào Facebook bằng cách xóa địa chỉ http://www.facebook.com và apps.facebook.com khỏi dịch vụ truy cập tên miền (DNS) trong vòng vài giờ cho đến vài ngày. Những ISP khác như FPT và VNPT cũng làm tương tư trong vòng vài tiếng vào ngày 10 tháng 11, 2009. Có tin đồn là đó là những thử nghiệm trước khi có lệnh chận chính thức. Kể từ 16 tháng 11, 2009 FPT, VNPT, Viettel, SCTV/VDC và EVN đều chận tất cả truy cập DNS vào Facebook, điều mà nhiều người tin là việc ngăn chận thường trực kể từ nay.

Đây có phải bị chận thật sự hay chỉ là sự cố kỹ thuật ?

Việc chận Facebook không phải là sự cố. Không phải vì trục trặc kỹ thuật. Đây là cú đánh vào dịch vụ truy cập DNS của các ISP (dịch vụ này chuyển địa chỉ trong dạng http://www.facebook.com và apps.facebook.com sang dạng máy vi tính hiểu được, tức là 69.63.184.31).

Việc không vào được Facebook vừa rồi tương tự như Trang Vàng tự nhiên biến mất danh mục của Cà phê Trung Nguyên. Không phải là ai đó đổ thức ăn lên trang vàng khiến bạn đọc khó khăn, mà là tự nhiên danh mục đó biến đi đâu mất tiêu. Không phải chỉ có một trang vàng mà mỗi ISP như FPT, SCTV, VNPT, Viettetl ai cũng một trang vàng riêng và trang vàng nào cũng mất tiêu danh mục của Facebook.

Xác suất mà địa chỉ của Facebook bị “vô tình” rớt mất gần như không có. Tất cả dữ kiện cộng lại cho thấy đây là một động thái cố tình.

Có chứng cớ gì khác cho thấy việc chặn chính thức đến từ chính quyền ?

Hành động của các ISP tự nó đã nói lên sự việc, tuy nhiên chưa có chứng cớ cụ thể nào về lệnh cấm chính thức của chính quyền.

Trên net có một văn bản tung ra vào khoảng tháng 9/2009 cho rằng là của chính quyền đòi hỏi các ISP phải chận Facebook, tuy nhiên chưa xác định được văn bản này thật hay giả. Có một ấn bản khác tương tự có đóng dấu và chữ ký từ một bệnh viện, tuy nhiên ấn bản nên lờ đi vì có chỉ dấu cạo sửa.

Có một thân chủ thương mãi của FPT trò chuyện với đại diện FPT và người này cho biết (không chính thức) là sắp có lệnh cấm Facebook.

Tại sao bạn nghĩ là bị chận trong khi một số bạn bè của tôi vẫn vào được Facebook ?

Chúng tôi có được biết là một số người vẫn vào được Facebook như ở đại học RMIT chẳng hạn.

Việc ngăn chận không nhất thiết là chặn hết tất cả. Và như tôi trình bày dưới đây, chận một phần nào đó cũng đủ để ngăn cản phần lớn người dùng vào Facebook.

Tại sao không chờ xem coi có lệnh chận chính thức không thay gì xôn xao, xào xáo lên thế này ?

Đối với một số người, chờ đợi không phải là một chọn lựa. Chúng tôi cần dự phóng là có thể tùy thuộc vào Facebook để liên lạc với các nhóm khác, để quảng bá sự kiện sắp tới. Việc không vào được Facebook tác động đến công việc, nỗ lực tổ chức, cũng như giữ mối liên lạc với bạn bè thân nhân.

Động cơ gì thúc đẩy việc chặn Facebook ?

Mọi người có thể đoán là lý do chính trị, kiểm duyệt, kiểm soát. Tuy nhiên cũng có tin đồn là có những công ty cạnh tranh ở địa phương lợi dụng mối quan hệ với nhà nước để đẩy lùi dịch vụ Facebook.

Có cách gì vượt qua rào chắn để vào Facebook ?

Có, ngay bây giờ bạn có thể dùng một trong những cách sau đây:

 Vào http://lite.facebook.com/ tuy các chức năng có bị giới hạn. Địa chỉ này chưa bị chận.
 Điều chỉnh máy vi tính hay router của bạn dùng OpenDNS thay vì dùng DNS định sẵn của các ISP. Xem hướng dẫn cách dùng OpenDNS.
 Dùng địa chỉ số IP của máy chủ Facebook.
- Xem cách điều chỉnh hosts file.
- Đây là một số thí dụ địa số IP, tuy nhiên thay số 69.63.178.11 bằng số 69.63.181.15 mới hơn. Cẩn thận coi chừng các con số IP này được Facebook đổi trong tương lai.
 Dùng web proxies miễn phí. Bạn có thể tìm các web proxies miễn phí này.
 Nếu bạn truy cập vào được một máy chủ ở hải ngoại, bạn có thể dùng VPN hoặc thiết kế SOCKS proxy dùng ssh tunnelling. Cách này cho dân rành vi tính. Nói vậy là bạn hiểu tôi nói gì và dư sức làm.

Dĩ nhiên các cách trên có thể không dùng được trong tương lai nếu chính quyền VN hay các ISP muốn xiết chặt lại. Tuy nhiên có xác xuất là họ không đi xa hơn thế vì những lý do sau đây.

Tại sao họ không tìm cách chặn hay ngăn cản cách cách vượt rào này ?

Trong các cách vượt trên có cái chặn dễ, có cái chặn khó. Chẳng hạn như cho địa chỉ lite.facebook.com vào danh sách chận là xong ngay. Thế còn ngăn chận OpenDNS hay chận các địa chỉ số IP của Facebook thì sao ?

Chặn tên miền của Facebook dễ hơn chận OpenDNS hoặc điạ chỉ số IP. Số lượng danh bạ DNS của Facebook ít hơn là số lượng địa chỉ số IP. Các địa chỉ số IP này cũng có thể thường xuyên đổi. Ngăn chận bằng IP (IP filtering) sẽ làm tốc độ giao thông internet chậm lại thành ra ISP không thích chặn bằng IP.

Còn web proxies miễn phi thì có quá nhiều trên net. Chận không xuể. Và nếu bạn có proxy riêng để VPN hay ssh vào thì không có cách gì chận.

Có thể một số cách vượt sẽ bị phá trong tương lai, tuy nhiên sẽ cần thời gian.

Nếu có cách vượt rào để vào Facebook thì lo lắng làm gì ?

Các cách vượt tôi liệt kê trên, như OpenDNS và proxies, có giúp phần nào nhưng chưa đủ. Ngăn chận một social network không giống như chận YouTube hay một trang web chống đối chính quyền. Chúng ta thường vào Facebook không phải chỉ để tiếp cận thông tin. Chúng ta dùng Facebook để nối kết quan hệ với những người khác. Như luật Metcalfe có nói “Giá trị của một mạng lưới viễn liên tương ứng với lũy thừa hai của số lượng người dùng”

Bạn cần đa số bạn bè và cộng đồng vào được social network để đạt được giá trị hứa hẹn của nó chứ không phải chỉ có một mình bạn. Để quảng bá hữu hiệu một sự kiện nào đó cần có đa số độc giả có mặt. Nếu không bảo đảm được là mọi người trong cộng đồng, dù là dân địa phương hay ngoại kiều, vào được mạng dễ dàng thì cộng đồng này sẽ tàn lụi. Tuy có thể vào được bằng proxies hay OpenDNS nhưng các phương thức này không phải ai cũng biết và không dễ dùng. Nếu 80% dân số cộng đồng không biết dùng và không vào được Facebook mặc dầu riêng bạn thì vào được, thế là bạn đã mất đi 99% giá trị của social network.

Hệ quả của việc đa số không vào được là Facebook sẽ ngày càng ít người vào, mặc dầu những người này biết cách vượt rào để vào. Cuối cùng lại còn có một mình bạn và còn vui vẻ gì nữa. Bên Trung Quốc số lượng người dùng của Facebook giảm từ 1 triệu xuống còn 14,000 trong vòng 3 tháng sau khi bị cấm đoán.

Thành thử ra mặc dầu rào chặn DNS không hữu hiệu lắm trong việc kiểm duyệt hay ngăn chận các trang như YouTube nó lại hữu hiệu trong việc chặn Facebook vì nó phá hủy giá trị của một social network.

Chúng ta có thể làm gì ?

Hiện thời không có dịch vụ nào có cùng chức năng và quyền hạn như Facebook. Nhiều phần người Việt trong nước sẽ dùng cách dịch vụ social network nội địa.

Việt kiều, ngoại kiều có thể phải quay trở lại cách dịch vụ kém hơn như Hi5, Orkut, MySpace.

(Nguyên bản tiếng Anh của Huy Zing và Bản dịch là của Viet Tan trên blog HuyZing)

Thứ Ba, 17 tháng 11, 2009

Chuyên nghiệp

Hôm rồi xem Thúy Nga Paris (chả nhớ số bao nhiêu) có đoạn Trung tâm Thúy Nga mời Phạm Quỳnh Anh đến hát bài Xin chào Việt Nam bằng tiếng Anh, sau đó MC Nguyễn Ngọc Ngạn có nói Trung tâm Thúy Nga đã có ý định mời Quỳnh Anh hát thêm 01 bài hát khác nữa bằng tiếng Việt nhưng Manager của Quỳnh Anh đã không đồng ý vì cho rằng tiếng Việt của Quỳnh Anh còn hạn chế, nếu hát một bài hát tiếng Việt mà tiếng Việt còn hạn chế, chưa được luyện tập nhiều sẽ ảnh hưởng đến uy tín và thương hiệu của Quỳnh Anh sau này....Chỉ với từng ấy chi tiết đã có thể thấy sự chuyên nghiệp trong giới showbiz của nước ngoài đến mức nào, họ cẩn thận đến từng chi tiết

Cũng vừa rồi thấy trên Facebook post nhiều link về bài phát biểu của một đ/c Lãnh đạo Nhà nước ở Cu Ba trên youtube, phát biểu ấy khá "ngây ngô" và mang tính "thiếu chuyên nghiệp" của đội ngũ lo "hậu trường" của Nhà nước và tất nhiên là của cả đ/c lãnh đạo nọ.


Thứ Hai, 16 tháng 11, 2009

Người Tốt

Sáng thứ bảy đáng nhẽ được nghỉ ở nhà nhưng vì hứa chở con gái đến nhà cô giáo để cô đưa đi chơi nên phải dậy sớm. Mới đi được một đoạn khỏi nhà thì hết sạch xăng, xe giật giật rồi dừng hẳn. Đoạn đường đại lộ Đông Tây mới rất đẹp nhưng hai bên đường vắng tanh, chẳng có cây xăng nào. Dắt bộ xe thì không ngại nhưng sợ khổ cho con bé Yên Khuê. Nhìn sang bên đường thấy có hàng sửa xe, đoán chắc thế nào cũng có bán xăng liền bỏ xe dắt con sang. Anh thợ sửa xe bảo mới sáng sớm nên không có xăng bán! Ngán ngẩm, đang loay hoay không biết làm thế nào thì có một anh đang vá săm (lốp) ở hàng sửa xe bảo lấy cái can nhựa đi, tôi lấy xăng bên xe tôi sang cho rồi chạy tạm. Mượn hàng sửa xe cái can nhựa, rút xăng từ chiếc xe sang đang vá rồi sang đổ vào xe mình. Quay trở lại cám ơn anh, rồi xin phép anh cho gửi tiền anh mua xăng, anh nhất định không nhận. Anh bảo chẳng có gì đâu, qua đường gặp khó thì giúp nhau thôi, chịu khó chạy lên đến cây xăng thì đổ không thì khổ cháu....Mình vẫn nghĩ: “Ở đời vẫn còn nhiều người tốt”, hôm nay mới thấy hóa ra mình cũng không đến nỗi xa rời thực tế lắm!

An ninh

Chút lý thuyết

Bàn về an ninh trong quan hệ quốc tế, cho mãi đến gần đây khuynh hướng có phần chiếm ưu thế là đồng hóa an ninh với quốc phòng, định nghĩa an ninh như là khả năng có thể ngăn chận được các cuộc xâm lược vũ trang đến từ bên ngoài. Cách nhìn này xuất phát từ lý thuyết được gọi là duy thực, theo đó nổi cộm trong các quan hệ quốc tế, trên thực tế là sức mạnh và tiềm năng quân sự của các quốc gia. Trên tiêu chuẩn sức mạnh đó, ta có thể xếp hạng các quốc gia trên thế giới - nhược tiểu, trung cường, bá chủ, siêu cường… - cũng như nghiên cứu chiến lược của các quốc gia để tạo chiến tranh, để bảo vệ chủ quyền - thế liên minh, thế cân bằng lực lượng, thế trung lập, thế phi liên kết, thế môi hở răng lạnh, thế hữu nghị, thế đoàn kết anh em v.v… Với cách nhìn đó, quốc gia là chủ thể trên bàn cờ quốc tế và an ninh là nghề của hai chàng, chàng ngoại giao và chàng đánh đấm, chàng này đánh, chàng kia đàm. Đánh và đàm, quan hệ quốc tế chủ yếu là như thế: là hòa bình và chiến tranh.

Lúc nhỏ, ta cũng học lịch sử như thế, toàn là anh hùng và trận mạc. Lớn lên với chiến tranh lạnh, lại chạm trán với bom nguyên tử và hai khối, trong đầu lúc nào cũng sừng sững bức tường Bá Linh, trước mắt thì ầm ầm B52 củng cố vĩ tuyến. Đâu đâu chúng ta cũng thấy phô trương sức mạnh quân sự như là yếu tố hàng đầu trong việc đo lường sức mạnh quốc gia? Có lý thuyết nào ăn đứt được lý thuyết duy thực!

Thế rồi chiến tranh lạnh chấm dứt, bom đạn rút lui, nhường mặt tiền sân khấu cho thương mãi, hàng hóa, sản xuất, kinh tế. Đe dọa quân sự im lắng, nhưng rất nhanh một loạt hiểm nguy khác xuất hiện, bất kể biên giới quốc gia, bất cần phân biệt lớn nhỏ mạnh yếu, đe dọa đến từ bên trong các nước, trong dân chúng, trong xã hội như: bệnh dịch, môi trường, khủng bố, ma túy… Quan tâm về an ninh, do đó, chuyển từ bên ngoài các quốc gia vào bên trong các xã hội, nới rộng khái niệm an ninh cổ điển sang đến các cá nhân, các xã hội, biến an ninh xã hội thành đối tượng tranh chấp, đối tượng nghiên cứu trong quan hệ quốc tế.

Tác giả đầu tiên nâng an ninh xã hội lên thành một đối tượng nghiên cứu độc lập và biệt lập với an ninh quốc gia là Barry Buzan. Để làm như vậy, trước tiên ông phải định nghĩa “xã hội” là gì. Ông viết: “Chìa khóa để hiểu xã hội là những ý nghĩ và tập quán đồng hóa các cá nhân như là thành phần của một nhóm xã hội. Xã hội là liên quan đến bản sắc, liên quan đến quan niệm về mình của các cộng đồng và của các cá nhân tự đồng hóa mình như là thành phần của một cộng đồng

.[1]

Trong định nghĩa đó, bản sắc là khái niệm cốt tủy. Vì sao? Vì di dân đã trở thành một thực tại quốc tế ngày nay, và, dưới mắt các xã hội nhập cư, di dân đe dọa bản sắc của dân tộc tiếp quản. “Xã hội, tận căn bản, là liên quan đến bản sắc”, ông nhắc lui nhắc tới.[2] Và “an ninh xã hội liên quan đến khả năng trường tồn của một xã hội phù hợp với đặc tính căn bản của xã hội ấy khi hoàn cảnh thay đổi”.[3]

Bản sắcdi dân: quả thật đó là quan tâm hàng đầu hiện nay về an ninh ở Âu Mỹ sau khi các mối đe dọa về chiến tranh đã phần nào lắng dịu. Tại Mỹ, vấn đề di dân đã được đặt ra từ lâu, nhất là đối với việc nhập cư bất hợp pháp từ Mêhicô, nhưng gần đây người Mỹ lại có thêm lo ngại nữa từ thế giới Hồi giáo sau sự cố 11-9. Tại Âu châu cũng vậy, đồng hóa dân ngụ cư đến từ các nước Ả Rập-Hồi giáo là chuyện nan giải, chưa đâu làm được, trong khi giới cực hữu tha hồ khai thác mối sợ hãi bàng bạc trong dân chúng. Nhưng hiện tượng di dân đâu phải chỉ đe dọa Mỹ với Âu! Ở nhiều nơi khác, tình trạng còn thực sự trầm trọng hơn nữa, trầm trọng đến mức báo động, nhất là khi việc di dân là quốc sách của một nước tạo mọi điều kiện để gửi dân họ đi. Cứ nhìn tỉ lệ người Hán ở Tây Tạng ngày nay thì biết.

Buzan mở đầu cho cả một trào lưu nghiên cứu mới hiện nay, đặt trọng tâm trên an ninh xã hội thay vì an ninh quân sự trong quan hệ quốc tế. Trường phái mà ông hướng dẫn - được gọi là “trường phái Copenhagen” - đưa ra nhiều ý tưởng mới lạ. Chẳng hạn trong tương quan giữa di dân và chính sách an ninh của các nước, trường phái Buzan vạch ra hai yếu tố quan trọng: sự khác biệt giữa các quốc gia và việc an ninh hóa những vấn đề chính trị.

Về điểm thứ nhất, ai chẳng biết các quốc gia vốn khác nhau về mọi mặt, nhưng cách nhìn của Buzan không phải là nhìn từ bên ngoài các quốc gia như phái duy thực từng chủ trương, mà từ bên trong mỗi quốc gia để phân biệt văn hóa, ý thức hệ, chính thể… Mỗi quốc gia mỗi khác, nhưng điểm khác biệt căn bản nhất phải xét đến là sự vững chắc, gắn bó, đoàn kết về xã hội, chính trị vìan ninh trường tồn của một quốc gia nằm ở chỗ đó. Tiêu chuẩn để phân biệt giữa quốc gia “mạnh” và “yếu” cũng đặt trọng tâm ở đó: một quốc gia “mạnh” là quốc gia có nhiều khả năng đối đầu với những đe dọa về an ninh hơn một quốc gia “yếu”.

Về điểm thứ hai, vì mỗi quốc gia mỗi khác như vậy, nên bản chất của vấn đề an ninh cũng thay đổi tận căn bản từ quốc gia này qua quốc gia kia, không phân biệt yếu mạnh. Nói cách khác, không thể có một định nghĩa chung cho tất cả các quốc gia về vấn đề an ninh, mỗi quốc gia tự định nghĩa lấy khi chạm mặt với những vấn đề cụ thể. Điều đó có nghĩa rằng không thể định nghĩa các luồng di dân như là một vấn đề an ninh có cùng và có sẵn những biện pháp đối phó giống nhau bất kể nơi đâu. Ngay cả chuyện di dân, có thể nước này xem đó là một vấn đề an ninh mà nước kia thì không. Bởi vậy, định nghĩa di dân có phải là quan tâm an ninh hay không còn tùy thuộc vào sự an ninh hóa vấn đề di dân. An ninh hóa có nghĩa là một vấn đề được trình bày như là một đe dọa liên quan đến chính sinh mạng, đòi hỏi phải có những biện pháp cấp bách, tương ứng, khác với những vấn đề chính trị bình thường. Vấn đề đó có thực hay không, không phải là chuyện đáng xét; chuyện đáng xét là vấn đề đó được trình bày như là một đe dọa liên quan đến sinh mạng và vận mệnh của cả một dân tộc.

Điều này hàm chứa ba kịch bản khác nhau. Một, là các nhóm xã hội trong một nước xem một cộng đồng di dân nào đó như là đe dọa trong khi các nhóm khác thì không nghĩ như thế. Hai, là cộng đồng di dân nào đó không tạo nên một đe dọa gì thực sự cho nước di trú, nhưng những nhóm xã hội nào đó trong nước ấy thuyết phục được mọi người xem đó như là đe dọa. Ba, là cộng đồng di dân nào đó thực sự là một đe dọa, nhưng nhà cầm quyền, vì lý do gì gì đó, cứ nguây nguẩy nói không, nghĩa là từ khước, không chịu an ninh hóa.

Từ bên ngoài đi vào, di dân có thể gây bất ổn an ninh cho xã hội bên trong một nước nếu nước ấy thiếu bền vững xã hội; bất ổn ấy, nếu giải quyết không xong, không những loạn xảy ra ở bên trong mà còn có cơ tuôn ra bên ngoài để trở thành tranh chấp quốc tế. Do đó, muốn nghiên cứu vấn đề di dân, không thể không nhìn tầm cỡ của nước gửi dân đi, vị thế của nước đó trên thế giới, chính sách của nước đó, quan hệ của nước đó với nước tiếp quản. Di dân là vấn đề an ninh số một trong nghiên cứu quan hệ quốc tế ngày nay. Buzan và trường phái Copenhagen trở thành sách giáo khoa trong giới đại học.

Tóm tắt lý thuyết như thế này, tôi biết là quá sơ sài, nhưng tôi đâu có muốn bàn ở đây chuyện di dân ở Âu Mỹ xa xôi? Tôi hạn chế vấn đề vào các nước sát nách chúng ta thôi, nhưng tôi phải trình bày chút lý thuyết như vậy bởi vì, như vừa nói, nước di dân ở trên đầu chúng ta có vai vế quốc tế quá chóng mặt, không thể không nhìn di dân từ nước ấy mà không xét đến chính sách của họ trên bình diện quốc tế. Các anh chị biết tôi muốn nói gì rồi.

Nói chuyện ở xa

Vâng, sách vở nào bây giờ cũng đều nói đến chuyện ấy nhàm tai: cùng với phát triển kinh tế và nhu cầu sử dụng năng lượng, sức mạnh mềm của Trung Quốc đang tỏa ra khắp thế giới, trên mọi lĩnh vực, chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, công nghệ, buôn bán vũ khí, viện trợ, y tế, thương mãi, du lịch, văn hóa, và nhất là văn hóa. Riêng về lĩnh vực xã hội mà chúng ta đang bàn ở đây, sách vở nói: vì Trung Quốc đã trở thành tay đầu tư quốc tế, tay lái buôn quốc tế, chính phủ họ không những dẹp bỏ những hạn chế về di dân trong nội địa mà còn làm dễ dàng việc xuất ngoại của dân chúng để kinh doanh, để du lịch. Hàng loạt, hàng loạt doanh nhân được khuyến khích đi ra nước ngoài đầu tư, hàng loạt, hàng loạt công ty được mở ra ở ngoại quốc, hàng loạt, hàng loạt công nhân đi theo, hàng loạt, hàng loạt du khách xỉa răng trên mọi đường phố.

Di dân… Có bao giờ nước Trung Hoa ngớt di dân trong lịch sử đâu, nhưng di dân ngày nay không phải như trước: ngày nay người Trung Quốc di dân hàng loạt. Ước tính của các tổ chức lao động là công nhân Trung Quốc nhập biên các nước ngoài tăng mỗi năm khoảng 20%, phần đông “hề” một tiếng như Kinh Kha vượt sông Dịch, “tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn”. Con số chính xác thì khó có và khó biết đúng sai, nhưng tạm ghi về khuynh hướng tăng vọt ở Phi châu, nơi Trung Quốc đang tìm mọi cách hốt năng lượng, nhiên liệu: 24.000 ở Sudan năm 2004, gấp ba so với những năm trước; 50.000 ở Nigeria, so với 2000 năm 2001; 300.000 ở Nam Phi.[4] Mới đây, nhân một vụ đụng độ giữa di dân Trung Quốc với người bản xứ ở Alger, báo Le Monde đưa ra con số 50.000 công nhân Trung Quốc đóng đô ở đấy.[5] Cũng vậy, máu tham hễ thấy hơi dầu thì mê: con số cũng tăng vọt ở Nam Mỹ: 60.000 ở Peru, chưa kể hậu duệ của công dân Peru gốc Hoa còn đông hơn thế nhiều lắm; 50.000 ở Venezuela; 100.000 ở Brazil; 30.000 ở Mêhicô; 7000 ở Columbia. Thống kê ở Canada ghi: năm 2001, hơn 1 triệu dân gốc Hoa sống trong nước.[6] Riêng con số lấy được ở cái xứ nhỏ Costa Rica thì vừa chính xác lại vừa lý thú về nhiều mặt, trước hết là mặt phụ tình. Giống như các nước châu Mỹ la tinh khác, Costa Rica chăn gối với Đài Loan ngót 63 năm, vậy mà bây giờ bứt ra thiếp phụ chàng, thiết lập ngoại giao chính thức với Bắc Kinh từ tháng 6-2007. Thương mãi giữa hai bên đã tăng gấp 10 lần, Đài Loan đọ hết nổi, mất pháo đài đầu tiên ở Nam Mỹ, điểm nhắm của Bắc Kinh. Ân nghĩa sòng phẳng, Trung Quốc ký hiệp ước vào tháng 5-2008 cho không 10 triệu đô la tiền mặt, hứa cho thêm 72 triệu nữa để xây một sân vận động mới toanh và mang qua… 800 công nhân Trung Quốc để thực hiện công tác đó. Con số 800 tuy khiêm tốn, nhưng ôi, tiêu biểu biết bao cho cả một đại chính sách đang được triển khai và áp dụng khắp nơi.[7]

Ở Costa Rica, mục tiêu của Trung Quốc, ngoài kinh tế, còn là chính trị: phá vỡ phòng tuyến của Đài Loan, phất cao ngọn cờ Trung Quốc là một“. Ở các vùng khác, mục tiêu đó không có, nhưng mẫu mực viện trợ, mậu dịch, đầu tư, xây dựng, phát triển kinh tế đều giống nhau. Ví dụ ở Angola, cùng với Sudan và Nigeria, Angola là đối tượng dầu hỏa ở Phi châu mà Trung Quốc nhắm, nhưng Angola khác Sudan ở chỗ nước này bị quốc tế cấm vận, các công ty phương Tây bỏ rơi, nên Trung Quốc vẫy vùng như giữa chốn không người, còn ở Angola họ phải cạnh tranh ráo riết. Bởi vậy, Trung Quốc phải thòi ra cả một đống cao đơn hoàn tán, từ ngoại giao đến cho vay, với những thủ thuật mập mờ, chẳng ai biết rõ chi tiết. Bắt đầu từ 2004, Ngân hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc (Exim Bank) cho Angola vay 2 tỷ Mỹ kim một cách dễ dàng để tái thiết cơ sở hạ tầng bị phá hủy bởi chiến tranh. Trung Quốc đã gãi đúng chỗ, vì đó là lúc Angola đang ngứa tiền trong khi Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế thì buộc phải minh bạch kinh tế và cải cách chính trị mới cho vay. Đối tác vẫn còn ngứa, Exim hào phóng cho vay thêm một đợt thứ hai 2 tỷ nữa vào tháng 9-2007. Với điều kiện gì? Nhiều công ty Trung Quốc sẽ đến tận nơi để xây dựng, mang theo dụng cụ, trang thiết bị và… công nhân. Bao nhiêu? Hàng chục ngàn! Dân Angola đang thất nghiệp tràn lan nên thèm việc ấy như dân Bắc Kinh hẫu vịt quay.[8]

Nghĩa là gì? Nghĩa là di dân đã thành ra chính sách, hỗ trợ bằng ngoại giao, và chính sách ấy là một bộ phận trong chính sách đầu tư, viện trợ, trao đổi - trong

sức mạnh mềm tỏa ra khắp năm châu bốn biển của Trung Quốc. Đường sá, cầu cống, đập thủy điện, trường học, bệnh viện, sân bay… những hạ tầng cơ sở trọng yếu đó của phát triển kinh tế, nhất là ở Phi châu, đã thực hiện với thợ thầy Trung Quốc. Chưa kể những công trình khác, kém cần thiết nhưng oai vang hơn: sân vận động, công thự, toà nhà Quốc hội… Dưới khẩu hiệu “Liên đới, Chủ quyền, Thắng-Thắng”, đầu tư, nhiên liệu, năng lượng, đại công trình bay cùng bầy với nhau như chim một đàn. Vừa xông tay ra để nắm yết hầu của các nguồn năng lượng trên thế giới, vừa phóng việc làm cho hơn 23 triệu nông dân ùn ùn kéo lên thành phố trong nội địa,[9] lại vừa được tiếng là anh em giúp nhau win-win trong các nước kém mở mang, sách vở nói Trung Quốc đang thành công như diều gặp gió!

Ấy là chưa nói đến du lịch, tuy rằng đây không phải là di dân, chỉ là lượng người di chuyển. Bao nhiêu? Con số du khách Trung Quốc đi thăm thú thế giới có thể lên đến 100 triệu vào năm 2015, đông nhất hoàn cầu. Các nước Ả Rập ở Trung Đông đang hí hửng trước cái thị trường khổng lồ ấy. Riêng Ai Cập, con số 35.000 đạt được năm 2005 có thể tăng lên 80.000 trong những năm tới. Báo chí, truyền thông Trung Quốc tung hô khẩu hiệu ngọt như mía lùi: “We're all East”! “Chúng ta đều là Đông phương với nhau”! Tài thế![10]Trong số 100 triệu ấy, ước tính một phần ba thích chọn Đông Nam Á, vừa gần, vừa rẻ, vừa đủ tiện nghi, mọi bộ phận của thân thể đều có dịch vụ tương ứng, cung cấp sung mãn. Thái Lan hy vọng thâu nhận ít nhất 4 triệu mỗi năm từ cuối thập kỷ này.[11]

Cũng liên quan đến việc di dân kiểu mới, phải kể chính sách đầu tư đất ruộng ở nước ngoài để phòng xa bảo đảm an ninh lương thực trong nước. Về mặt này, Trung Quốc không làm khác Hàn Quốc, các Tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất, Nhật và Ả rập Saudi: năm nước ấy hiện nay chiếm hơn 7,6 triệu hecta đất canh tác ở bên ngoài, nghĩa là tương đương với 5,6 lần diện tích canh tác của nước Bỉ. Với tốc độ thành thị hóa và lượng nước kém dần, đất canh tác càng ngày càng hiếm, sản xuất lương thực có cơ giảm sút trầm trọng. Cho nên Trung Quốc xem việc tậu đất canh tác ở ngoại quốc như một chính sách ưu tiên: ông khổng lồ ấy chiếm 40% tổng số dân sống về canh nông trên thế giới nhưng chỉ có 9% đất cày cấy được trên hoàn cầu. Năm 2006, Trung Quốc ký nhiều thỏa ước hợp tác canh nông với nhiều nước Phi châu để thành lập 14 nông trường thí nghiệm ở Zambie, ở Zimbabwe, ở Ouganda và Tanzanie. Bao nhiêu nông dân Trung Quốc sẽ đến đấy canh tác? Một triệu vào năm 2010. Khỏi cần thi tuyển sinh vì bao nhiêu nông dân thất nghiệp trong khủng hoảng hiện tại ở Trung Quốc đều sẵn sàng khăn gói lên đường tuốt. Ngôn ngữ chính thức của Bắc Kinh là: giúp các nước ấy tăng gia lượng sản xuất nhờ công nghệ Trung Quốc. Các giống lúa lai mà Trung Quốc chế tạo được sẽ làm tăng năng suất lên 60% so với năng suất trung bình trên thế giới. Có thể lắm. Nhưng chắc chắn một số lượng lớn mùa màng thu hoạch sẽ được xuất khẩu qua Trung Quốc để bảo đảm lượng lương thực trên thị trường.[12] Bảo đảm an ninh về lương thực, hợp tác về canh nông, nhu yếu phẩm đó cũng lộ ra trong các thỏa ước về phát triển ký kết với các nước Nam Mỹ.

Chưa hết. Cặp mắt cú vọ của Bắc Kinh còn đang liếc ngang liếc dọc các miền đất mênh mông còn bỏ hoang của Nga và các nước Trung Á. Đất trống như vậy, sao ta không cho thuê kiếm thêm ít tiền? Lưỡng lự, vì sợ dân phản đối, nhưng rồi Kazakhstan cũng âm thầm cho một công ty liên doanh Trung Quốc-Kazakhstan thuê 7000 héc ta đất để trồng lúa mì và đậu nành. Lập tức 3000 nông dân đang đói việc của Trung Quốc vọt qua biên giới, mang theo dụng cụ canh tác hiện đại hơn, nông dân bản xứ có giận cũng đành chịu. Và đất Nga! Mênh mông vô tận xứ! Dường như trời sinh đất ấy để trồng đậu nành Trung Quốc ! Cách Matxcơva đến 6000 cây số nhưng chỉ cách Bắc Kinh 2000 cây số thôi, hai vùng Khabarovski và Birobidjan đã mang về cho Trung Quốc 420.000 tấn đậu nành trong năm 2008. Còn cả 20 triệu héc ta đất trồng trọt chưa khai thác ở bên kia biên giới, bên này thì thèm đậu nành, bên kia thì thèm tiền thuế, ông Nga chẳng còn gì để phải bận tâm ngoài việc ngồi chơi xơi tiền? Có chứ! Thống kê chính thức của Bộ Nội vụ Nga bóp còi: đã có từ 400.000 đến 700.000 dân Trung Quốc đang an vị trên đất Nga.[13]

Nói chuyện sát nách

Đó là nói về các nước ở xa. Các nước ở sát nách chúng ta thì sao? Xin nói chuyện gần đây nhất.

Dưới tiêu đề: “Á châu: Quản lý bên kia bờ khủng hoảng”, Diễn Đàn Boao đã họp ở Hải Nam trong tháng 4-2009 vớí diễn văn của Ôn Gia Bảo đề nghị các giải pháp để vượt qua khủng hoảng hiện tại. Trong 5 đề nghị “đẩy mạnh hợp tác giữa các nước Á châu”, hãy đọc nguyên văn đề nghị thứ ba vì đây là nguyên tắc, đường lối, chính sách, là ánh sáng rọi vào mọi áp dụng cụ thể:

“Đào sâu hợp tác đầu tư và kích thích phát triển kinh tế vùng bằng cách tăng gia đầu tư. Việc phát triển giao thông, điện lực và cơ sở hạ tầng viễn thông ở cấp vùng và dưới vùng phải được thúc đẩy. Ta phải từng bước thực hiện sự liên kết các mạng lưới của các cơ sở hạ tầng đó. Trung Quốc đã quyết định thiết lập

Quỹ hợp tác đầu tư Trung Quốc - ASEAN trị giá 10 tỷ Mỹ kim để hậu thuẫn cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong vùng. Để khuếch trương đầu tư, các quốc gia phải hành động theo tinh thần mở cửa và cho phép doanh nghiệp của các nước khác hoạt động một cách bình đẳng. Các công ty ở bên trong vùng phải được khuyến khích để hỗ tương đầu tư và gia tăng hợp tác về dịch vụ lao động, và phải tránh không được bắt công nhân nước ngoài hồi cư đông đảo”.[14]

Dưới ánh sáng rạng rỡ đó của câu cuối, bây giờ ta đi vào thực tế ở Lào, ở Miến Điện, ở Campuchia.

Theo thống kê chính thức, 30.000 công nhân Trung Quốc đã nhập vào nước Lào để xây dựng những đại công trình ở đấy. Từ thủ phủ Côn Minh của tỉnh Vân Nam ở phía bắc, con đường số 3 sẽ đâm xuyên qua Luang Nam Tha của Lào, chạy dọc theo sông Mêkông cho đến Houei Xay đối diện với Chiang Khong bên Thái Lan. Nay mai một chiếc cầu sẽ được xây để nối hai thành phố của hai nước. Khi xây xong, đường số 3 sẽ là tuyến giao thông chính nối Trung Quốc với Đông Nam Á. Đó là đường xá cầu cống. Ngoài ra, còn thủy điện, mỏ vàng, mỏ đồng, mỏ sắt, mỏ potasse, mỏ… bô xít. Nhiều đại dự án khác còn hách hơn: sân vận động ở Vientiane cho Thế vận hội Đông Nam Á 2009; 1000 hecta đất đầm lầy cạnh thủ đô được đặc nhượng cho một công ty Trung Quốc để xây một thành phố mới hiện đại, một Chinatown dành cho cư dân và doanh nhân Trung Quốc đến đầu tư; một Nhà văn hóa bề thế đã hoàn thành ở thủ đô; một khải hoàn môn kỳ vĩ cũng đã dựng lên, tô điểm cho công viên Patouxay một kiến trúc Lào độc đáo. Ba mươi ngàn công nhân? Thực tế có thể tăng gấp mười!.[15]

Con số khó chính xác, bởi vì ngoài công nhân còn đủ loại, đủ hạng người Trung Quốc qua Lào làm ăn không khai báo: bước một bước qua biên giới chứ xa xôi gì, vậy là họ có thể đổi đời, vì ở Lào không có cạnh tranh! Họ đến từ đâu? Từ Hồ Bắc, từ Hồ Nam, từ Tứ Xuyên, từ Vân Nam, từ Vũ Hán, từ tận trong nội địa Trung Quốc. Từ đâu cũng vậy, họ mang tên chung: xin yimin, tân di dân. Trong sòng bạc Boten, khách chơi hầu hết là Trung Quốc, nhân viên là Trung Quốc, tiểu thương mở quán chung quanh là Trung Quốc. Là xin yimin tuốt! Cũng vậy, chung quanh Luang Namtha, chạp phô là Trung Quốc, hàng quán mở chợ là Trung Quốc, khai khẩn đất đai là lái đất Trung Quốc được chính phủ Lào cấp đặc nhượng, đất rộng mênh mông, nằm mơ cũng không thấy được một tấc nơi chôn nhau cắt rốn.[16] Ngày trước, “Hoa kiều” chủ yếu đến từ các vùng biển miền nam Trung Quốc, quê hương của phần đông cộng đồng Trung Quốc trên thế giới, tập trung chung quanh 5 họ có ngôn ngữ địa phương riêng: Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam và Khách Gia. Bây giờ, đặc tính của xin yimin là đến từ đường bộ, hầu hết là nghèo mạt, phần lớn là đàn ông dĩ nhiên, phụ nữ độc thân cũng có, vợ chồng trót có hơn một con cũng nhiều: tất cả đều không kiếm được việc làm trên đất mẹ vì cạnh tranh dữ quá. Nếu trên thế giới này còn một chỗ không biết cạnh tranh thì ấy là đất Lào!

Làn sóng di dân này được Bắc Kinh khuyến khích, thúc đẩy, vì qua họ, không những hàng hóa sản xuất từ các tỉnh kém ưu đãi ở miền tây Trung Quốc được xuất khẩu, mà chính cả một vùng biên địa phía dưới Trung Quốc được bảo đảm an ninh vững như bàn thạch khỏi cần lính thú. Cho nên Trung Quốc rót tiền vào Lào, nghiễm nhiên trở thành ông chủ đầu tư số một với 236 dự án trị giá 876 triệu Mỹ kim, so với 3 triệu Mỹ kim năm 1996. Tổng số kim ngạch đầu tư trực tiếp được chính phủ Lào chấp thuận cho đến tháng 8-2007 lên đến 1,1 tỷ Mỹ kim, sát nút với Thái Lan (1,3 tỷ), chưa kể viện trợ tính bằng cho vay không lãi, cho vay đặc biệt.[17]

Công nhân, nông dân, tiểu thương, doanh nhân… thiếu gì nữa? Đồng tiền! Nhân dân tệ cũng di dân! Đánh bạt cả đồng Mỹ kim! Quang cảnh khá ngoạn mục, tôi xin trích dẫn: “Ở miền bắc Lào, tài xế xe vận tải và công nhân Trung Quốc bây giờ dừng chân nơi các quán nước và hộp đêm tạm bợ mọc lên dọc theo đường xe, thường thường là những quán cóc bằng gỗ, mái tôn, mang bảng hiệu chữ Trung Quốc - tất cả đều trả bằng nhân dân tệ”. Bức tranh trở nên sống động hơn, lại xin trích: “Bên trong, các cô gái Lào và Trung Quốc tụm năm tụm ba nơi góc quán, đứng chờ khách kéo ra, trả giá, rồi mang đến các khách sạn hoặc các kho xe nhớp nhúa để làm tình kiểu mì ăn liền”.[18] Chắc cũng trả bằng nhân dân tệ. Thủ tướng Ôn Gia Bảo hoàn toàn có lý khi đòi hỏi, trong điều thứ 5 của bài diễn văn khai mạc Diễn Đàn Boao, “Phải thúc đẩy nhanh chóng việc mở ra một hệ thống tiền tệ quốc tế đa dạng”, nghĩa là không phải chỉ mang cái mặt của ông Hoa Thịnh Đốn trên tấm giấy xanh.

Nước Lào là đất Phật. Dân Lào hiền hòa ai cũng biết. Phát triển kinh tế kiểu này, nói theo tờ báo Le Monde, có cơ “nước Lào trở thành một Tây Tạng thứ hai”.[19]

Vậy mà Lào còn thua Miến Điện một bậc. Mandalay, thành phố lớn thứ hai ở phía bắc, trước đây là kinh đô của vương quốc, bây giờ trở thành một Tiểu Vân Nam, cư trú Tàu, làm ăn Tàu, xài tiền Tàu, nói tiếng Tàu, lấy chồng Tàu. Bao nhiêu dân Trung Quốc? Hai trăm ngàn?[20] Chỉ biết chắc chắn là con số càng ngày càng tăng, vì gót chân Nam tiến của người Vân Nam càng ngày càng rộn. Khách sạn, tiệm buôn, quán ăn mọc lên như nấm, và phong tục, lễ hội Trung Quốc càng ngày càng ăn sâu vào nếp sống của thành phố.[21] Nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày khai sinh thành phố trong lịch sử, nhà báo Kyaw Yiu Myint tiên đoán: ngày mà vận mạng của Mandalay sẽ nằm trọn trong tay cư dân Trung Quốc và công dân Trung-Miến bày ra trước mắt; ngày đó chắc khỏi phải chờ thêm 150 năm nữa.[22]

Cùng với Mandalay, cả nước Miến Điện “phát triển kinh tế” trong quan tâm chiến lược của Trung Quốc về an ninh năng lượng cũng như về cách khống chế Ấn Độ và cả vùng Đông Nam Á. Miến Điện là nước độn nằm giữa hai ông khổng lồ đang gờm nhau và đang ghiền năng lượng trù phú mới khám phá trong cái nước trổ mặt nhìn Ấn Độ Dương này. Vân Nam và Tứ Xuyên bị khóa trong đất liền, không có lối thông ra biển? Thì ta mượn tạm cái Miến Điện này làm lộ thông thương! Từ những năm đầu 1980, Miến Điện đã được chiếu cố đặc biệt nhờ vị thế thuận lợi đó. Xuyên qua Miến, thông ra biển, hai tỉnh nghèo Vân Nam và Tứ Xuyên sẽ tuôn hàng hóa ra buôn bán được với châu Phi, với Trung Đông, với Tây Á. Nước quá giang đó lại còn quý hiếm cho tàu bè Trung Quốc vì tránh được eo biển Malacca đầy bất an. Cho nên nhu cầu ưu tiên của Trung Quốc là phải làm chủ lối vào các cảng Miến Điện. Bằng chính trị, bằng ngoại giao, bằng quân sự, bằng kinh tế, Trung Quốc bành trướng ảnh hưởng trên nước này và trở thành chỗ dựa vững chắc của một chính thể cai trị bằng bạo lực. Đồng thời, Trung Quốc tăng cường kiểm soát trên các vùng dọc theo bờ biển Andaman, án ngự lối vào lối ra của trục Ấn Độ Dương - Malacca bằng việc xây cảng cho hạm đội Trung Quốc tại đây. Ấn Độ lo lắng nhìn chính sách của Trung Quốc đối với Miến Điện và Pakistan như dấu hiệu của một chiến lược bao vây hai vòng: bằng đường thủy và bằng đường bộ.[23]

Về năng lượng, Trung Quốc cũng trên đà thắng thế. Từ tháng 7-2004, trước khi thủ tướng Miến qua thăm Bắc Kinh, Ôn Gia Bảo đã xác nhận tầm quan trọng của khí đốt ở Shwe và tuyên bố sẽ xây một đường ống dẫn khí đốt và một đường ống dẫn dầu: khí đốt sẽ được dẫn từ Shwe đến các tỉnh lục địa mạn tây-nam của Trung Quốc, còn dầu sẽ chuyển từ đường thủy qua đường bộ, chạy xuyên Miến Điện và rót vào Vân Nam. Các đại công trình bắt đầu từ đó, chưa kể việc xây các cảng và việc thăm dò các mỏ khí đốt khác được giao cho các công ty Trung Quốc. Một cảng mới đang được xây ở Kuauk Phyu, có sức nâng những tàu container lớn nhất thế giới. Họ cũng dự tính xây một con đường để nối cảng này ở phía đông với cảng Sittwe ở phía tây. Các ông tướng quân phiệt Miến Điện sẽ thừa tiền bỏ túi bất chấp Tây phương cấm vận, và công nhân Trung Quốc cũng không thiếu việc làm để cùng hể hả win-win như răng với môi. Đối với các tay đầu tư trục lợi Trung Quốc, Miến Điện đang là thị trường lớn nhất ở Đông Nam Á, chỉ sau Singapore. Cứ xem con số thì thấy: năm 1995, trị giá các dự án đầu tư của họ chỉ vỏn vẹn 20 triệu Mỹ kim; năm 1999, con số đã lên 192,69 triệu nhưng chưa thấm vào đâu so với con số trong khoảng 2000-2005. Bao nhiêu? Hơn 17 tỷ![24] Nghĩa là gì? Là hàng hàng lớp lớp công nhân ta, trăng treo đầu cuốc xẻng, vượt biên làm nghĩa vụ xoá đói giảm nghèo, xoá luôn biên giới, huynh đệ nhất gia mà lị. Bao nhiêu? Bao nhiêu xin yimin có mặt hiện nay tại Miến Điện? Có tác giả ước đoán: một triệu.[25] Chỉ riêng cái đồn điền mía do người Trung Quốc khai thác giữa vùng núi của dân tộc Shan ở phía bắc, giáp giới với thành phố Ruili của Trung Quốc, đã mang vào Miến Điện 5000 công nhân từ bên kia biên giới. Chẳng lẽ Miến Điện thiếu nông dân đến thế sao?[26] Một tác giả khác, cũng chuyên gia về Miến Điện, vuốt trán: “Di dân ngày nay được thực hiện trên một quy mô rộng lớn chưa bao giờ thấy ở Đông Nam Á”. Ngước mắt lên hỏi ông trời: “Di dân cổ điển hay là chiến lược xâm chiếm?”[27]

Lại sát nách với ta, phải kể thêm Campuchia, cũng nằm trong cùng một quan tâm chiến lược. Cũng thế thôi! Trung Quốc đang là nước đầu tư số một, viện trợ số một năm 2008. Con số chính thức do Tân Hoa Xã công bố là 5,7 tỷ Mỹ kim từ 1994 đến 2008, hơn 20% tổng số đầu tư trực tiếp ngoại quốc FDI. Tổng số viện trợ của quốc tế năm 2008 là 951,5 triệu Mỹ kim, một mình Trung Quốc đã chi 257 triệu.[28]

Lại cũng vậy, đầu tư của Trung Quốc đổ vào thủy điện, hầm mỏ, lâm sản, thăm dò dầu khí, cầu cống, đường sá, chế biến nông phẩm. Công ty Trung Quốc là những tay đầu tư chủ yếu ở đặc khu kinh tế mới phía nam cảng Sihanoukville. Cuối 2008, Trung Quốc tuyên bố sẽ tài trợ xây dựng một đường rầy xe lửa trị giá 5 triệu Mỹ kim nối Phnom Penh với Việt Nam. Tình cờ chăng, Trung Quốc vừa hứa giúp trang thiết bị và kỹ sư để xây đường vào tận rừng rậm phía bắc Siem Reap thì lập tức các công ty lớn của Trung Quốc đâm đơn khai thác quặng sắt nghe nói là đầy hứa hẹn tại đấy. Ai đi qua thủ đô xứ ấy xin dừng chân trên đại lộ Mao Trạch Đông để ngắm nghía đại sứ quán Trung Quốc xây mới toanh, uy nghi và hoành tráng.[29]

Vắt cho bằng hết nguyên liệu, Trung Quốc cũng thúc Campuchia vắt kiệt môi trường, đất đai. Ví dụ điển hình là quyết định năm 2004 của chính phủ Campuchia nhượng cho tập đoàn bản xứ Pheapimex và đối tác tổ hợp Trung Quốc Wuzhishan đặc quyền khai thác 10.000 hecta đất tại tỉnh Mondulkiri để trồng thông. Căng thẳng giữa một bên là công ty Trung Quốc liên tục tìm cách lấn chiếm thêm đất đai một cách bất hợp pháp và bên kia là dân chúng Campuchia cô thế tìm mọi cách để bảo vệ nhà cửa và môi trường sống của mình, dẫn đến tranh chấp, chống đối rồi đàn áp.[30] Một đặc nhượng đất đai lớn khác, khoảng 3000 hecta, tọa lạc trong một vùng ưu đãi, dường như vừa được cấp cho công ty xây dựng Trung Quốc YeejiaTourism Development: “Hun Sen rõ ràng muốn được có và được thực hiện những dự án Trung Quốc”.[31] Nói như nhiều người thường tố cáo ông rằng Hun Sen “chiều lụy Trung Quốc” hơi nhiều![32]

Nhưng đại công trình đáng để ý nhất của Trung Quốc ở Campuchia là việc ngăn nước sông Mêkông xây đập thủy điện. Tôi mượn một câu tả tình tả cảnh của một quan sát viên để hiểu vấn đề của người dân, ở đây là anh nông dân Phorn: “Vạch cỏ qua một bên, Phorn chỉ vào tảng đá dựng lên để làm dấu. “Công nhân Trung Quốc đến đây và đặt tảng đá ở đấy”. Vài thước trước mặt, nước sông Mêkông rộng lớn nhuộm bùn xoáy trôi. Hỏi anh ta có biết tảng đá ấy dùng để làm gì không, anh gật đầu, chỉ tay vào lòng sông: “Người Trung Quốc muốn xây một cái đập ở đấy””.[33]

Nếu đập được xây thì sao? Thì cái nhà của anh nông dân và cả cái làng nghèo ấy sẽ biến mất dưới cái hồ khổng lồ do cái đập tạo nên. Trung Quốc, theo lời tường thuật của quan sát viên ấy, đang “thúc đẩy một cách xâm lược” việc xây dựng hàng loạt các đập thủy điện ở Căm puchia, nhiều đập dọc theo sông Mêkông. Ở thượng nguồn, ai cũng biết, Trung Quốc đã xây một chuỗi đập, thay đổi lưu lượng của sông, gây tác hại cho các nước ở hạ nguồn về sinh thái, về môi trường, về nguồn cá, về lũ lụt, về mất rừng bảo hộ. Trên 80% của số dân 70 triệu trong vùng sống nhờ sông Mêkông, đông nhất là ở Campuchia và miền nam Việt Nam. Nhưng mà này, anh Phorn, dân Vân Nam và Tứ Xuyên chúng tôi cũng đông vậy, và chênh lệch giàu nghèo giữa các tỉnh ấy với các tỉnh duyên hải phía đông chẳng phải là nguy hiểm cho ổn định xã hội của Trung Quốc hay sao? Cho nên ở đâu xây đập được là ta cứ xây, ở thượng nguồn thì đem lợi ích cho Vân Nam, ở hạ nguồn thì phát triển kinh tế cho hàng xóm nghèo, đại công tác vi quý, môi trường thứ chi, xã hội vi khinh.

Vấn đề là con cá sống nhờ nước và dân Campuchia sống nhờ con cá. Con cá không có lụt dâng đúng chu kỳ mỗi năm để vào đẻ thì dân Campuchia ăn cái gì? Chuyện thượng nguồn là chuyện của chính phủ, chính phủ im miệng thì dân cũng đành chịu thua. Nhưng chuyện hạ nguồn thì chạm thẳng vào mặt của dân, cho nên đập nào xây cũng gây lộn xộn. Mà đã lộn xộn thì dân chúng đổ bất bình vào mặt công nhân Trung Quốc. Như ở Nam Mỹ. Như ở Phi châu. Như ở Algerie. Có điều là khác ngày xưa, ngày nay Trung Quốc bắt đầu bảo vệ công dân của mình ở nước ngoài: tháng 4-2006, chính phủ Bắc Kinh dùng máy bay chở hơn ba trăm công nhân bị dân chúng đảo Solomon, giữa Thái Bình Dương, nổi loạn tấn công, dấy lên một cao trào bài Hoa bạo động. Ngày nay, không phải như ngày xưa, di dân Trung Quốc biết mình được bảo vệ, lại hãnh diện là công dân của đại cường, tiền nhiều, sức mấy mà họ nhũn. Vả chăng, việc gì mà nhũn? Hòa nhập kinh tế chẳng phải là cái hướng anh em chúng ta đều cùng nhắm đến và cùng bước tới đó sao? Kìa xem Âu châu: tư tưởng tự do qua lại, hàng hóa tự do qua lại, dân chúng tự do qua lại. Thì ta cũng vậy: hàng hàng qua lại, người người lại qua!

Có tiền, mua được cả lịch sử. Vừa mới đây thôi, Hun Sen coi Trung Quốc là kẻ thù đáng tởm. Bây giờ, năm 2006, đặt chân lên Bắc Kinh thăm viếng chính thức, cũng Hun Sen ấy tuyên bố trước Ôn Gia Bảo: “Trung Quốc là người bạn đáng tin cậy nhất của Campuchia”. Hai bên đang tin cậy lẫn nhau, vợ Hun Sen là gốc Hoa, vợ phó thủ tướng Sok An là gốc Hoa, quyền lực kinh tế của Hun Sen dựa trên một nhóm tài phiệt Hoa - Khmer thường có nhăng nhện thông gia với cấp cao của chế độ. Bây giờ, húp tiền cũng như húp cháo lú, húp vào quên hết quá khứ. Chuyện hôm qua cho nó qua, chuyện hôm nay chúng em là những đối tác ưu đãi của người bạn lớn.

Win-win! Hỏi người dân Phi châu ở những nước bị cấm vận, tham nhũng số một, độc tài số một, vơ vét số một, tàn phá môi trường số một, hỏi họ Trung Quốc có thành công không, họ trả lời: thành công số một. Hỏi họ thế thì họ có win không, họ trả lời: người khác win. Câu đó, tôi chỉ chép lại từ sách vở đứng đắn.[34]

Di dân, văn hóa, sức mạnh mềm

Các anh chị thân mến, tôi đã nhắc lui nhắc tới nhiều lần, bây giờ xin nhắc thêm lần nữa: di dân kiểu mới là một bộ phận của “sức mạnh mềm”. Chỉ mới vài năm thôi mà ngày nay khái niệm ấy đã đi vào ngữ ngôn rộng rãi, lại đã được Bắc Kinh chính thức tiếp thu, chính thức bàn luận, chính thức đưa vào thực tế. Họ bàn luận với nhau: đâu là cái lõi của sức mạnh mềm? Lãnh đạo khuyến khích giới học thuật góp ý, và giới học thuật hồ hởi góp ý. Hai trường phái hẳn hoi - chứ không phải một - tranh cãi nhau, một bên cho rằng cái lõi ấy là văn hóa, bên kia thì nói đó là chính trị. Lãnh đạo nghe ý kiến đôi bên, rồi quyết: cái lõi ấy là văn hóa, “văn hóa nhuyễn thực lực”.

Trong một bài diễn văn nội bộ đọc vào tháng giêng 2006 trước một nhóm chóp bu về ngoại giao - “trung ương ngoại sự công tác lãnh đạo tiểu tổ” - Hồ Cẩm Đào tuyên bố: “Việc phát huy vị thế và nhân rộng tầm ảnh hưởng của Trung Quốc trên trường quốc tế phải được biểu lộ bằng cả hai sức mạnh cứng, gồm kinh tế, khoa học, công nghệ, quân sự, và sức mạnh mềm như là văn hóa”.[35] Sau đó, tại đại hội đảng lần thứ 17, họp vào tháng 10 năm 2007, ông nói rõ thêm: “Văn hóa càng ngày càng trở thành một nguồn quan trọng của đoàn kết dân tộc và của sức sáng tạo, và một yếu tố quan trọng trong cạnh tranh về toàn thể lực lượng quốc gia”.[36] Cái sức mạnh mềm văn hóa ấy, cái wenhua ruan shili ấy, ông nói, Trung Quốc phải phát huy.

Lệnh ban ra, pháo bông văn hóa Trung Quốc nổ rực trên khắp bầu trời thế giới: hơn 40 Viện Khổng Tử được dựng lên khắp nước Mỹ, 260 Viện trên 75 nước khác, nào “Năm Trung Quốc”, nào “Tuần Văn Hóa Trung Quốc”, nào “Thành Phố Huynh Đệ”, nào lễ hội, nào trao đổi sinh viên, nào học bổng, dạy Hoa ngữ, phim, ảnh, sách, nhạc, triển lãm lịch sử, biểu diễn võ thuật, nào tiền bạc tài trợ - ngân sách dành cho hoạt động văn hóa năm 2006 tăng 23,9% so với năm 2005, đạt đến mức 12,3 tỷ nhân dân tệ tương đương với khoảng gần 2 tỷ đô la Mỹ vào thời giá lúc đó - khắp nơi, từ Nam Mỹ đến Trung Đông, Phi châu, chương trình khuếch trương văn hóa 5 năm, biểu quyết năm 2006, thắp sáng văn hóa Trung Quốc trên hoàn vũ. Chương trình 5 năm ấy dành nguyên một chương cho chiến lược “bung ra toàn cầu”, khuyến khích báo chí, truyền thông, xí nghiệp văn hóa “khuếch đại thông tin, bình luận về văn hóa và ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc trên quốc tế”, bởi vì sức mạnh mềm nơi văn hóa của một nước không phải chỉ tùy thuộc vào sức hấp dẫn mà thôi, mà còn ở chỗ “có hay không được hậu thuẫn bằng những phương pháp và khả năng tuyên truyền mạnh mẽ”.[37]

Trung Đông, Nam Mỹ, Phi châu đều có tôn giáo riêng, tập tục riêng của họ, văn hóa Trung Quốc có truyền vào cũng chỉ trang điểm phấn son cho dung mạo kinh tế, chính trị, quân sự hoặc đeo đôi găng nhung lụa cho hai bàn tay vơ vét năng lượng, bòn rút mỏ dầu. Trái lại, đối với các nước kề cận, hoặc đã chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc từ bao nhiêu đời, hoặc đang chứa một số lượng người Trung Quốc quá đông, câu chuyện sẽ khác: sức mạnh mềm văn hóa ấy mềm như con tằm đang hẩu xực lá dâu. Cả hai tầng lớp trong xã hội đều bú mớm thứ văn hóa ấy: tầng lớp “thượng lưu”, trẻ, có học, bú phim ảnh, sách báo, ngôn ngữ, trường học; tầng lớp quần chúng nhuộm dần dần cái đầu để chung đụng hàng ngày trong những “xóm mới” càng ngày càng biến thành xóm Hoa. Sức mạnh? Chiến tranh? Đâu cần! Súng chưa kịp nổ, dân đã mất rồi.

Và như vậy, tôi trở lui với ông tác giả Barry Buzan thân mến đã nói trong những trang đầu. Ông này bảo, các anh chị còn nhớ: an ninh ngày nay chủ yếu là an ninh xã hội và xã hội được định nghĩa là bản sắc. Bản sắc là gì? Ông nói: là văn hóa.

Tôi có thể chấm dứt ở đây nếu các anh chị không phản đối rằng tôi đã lạc đề, nói nhăng nói cuội đâu đâu, chờ mãi chẳng thấy chữ nào động đến đề tài “Nhìn lại Việt Nam 2008” của Hội Thảo Hè năm 2009 này.* Nếu các anh chị phản đối như vậy thì tôi đành xin phép gắng gượng đọc thêm vài câu thôi, vài câu tóm tắt sau đây trong một bài tường thuật đăng trên mạng Tuổi TrẻLao Động ngày 16-4-2009 :

Lao động phổ thông nước ngoài đổ vào Việt Nam. Hàng chục ngàn lao động nước ngoài đang làm việc ở Việt Nam nhưng chưa được cấp phép lao động. Phần lớn trong số họ đều là lao động phổ thông, không có tay nghề. Ngoài những công việc làm ôsin, buôn bán nhỏ, đông nhất trong số họ là đi theo các nhà thầu, phần lớn là nhà thầu Trung Quốc. Nhiều nơi như ở công trình khai thác bôxit ở Tân Rai (Bảo Lộc, Lâm Đồng), nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh, nhà máy nhiệt điện than Hải Phòng, công trình khí-điện-đạm Cà Mau… số lao động Trung Quốc luôn áp đảo lao động trong nước, với số lượng mỗi nơi từ 700 đến trên 2000 người/công trình”.

Bài tường thuật khá dài, xin anh chị đọc và nghiên cứu thêm trong phần phụ lục; đọc ở đây, với cái kiểu nghiên cứu trữ tình này của tôi, e chúng ta sẽ thành những Giang châu tư mã tuốt.

* Bài này được đọc tại Hội thảo Hè (2009) “Nhìn lại Việt Nam 2008”, tại Paris

Cao Huy Thuần
Giáo sư Emeritus
Đại học Picardie (Pháp)

Nguồn: Thời Đại Mới

PHỤ LỤC

1. “Lao động phổ thông nước ngoài đổ vào Việt Nam” (Tuổi Trẻ)

http://www.google.fr/search?hl=fr&q=lao+%C4%91%E1%BB%99ng+ph%E1%BB%95+th%C3%B4ng+n%C6%B0%E1%BB%9Bc+ngo%C3%A0i+%C4%91%E1%BB%95+v%C3%A0o+vi%E1%BB%87t+nam&btnG=Recherche+Google&meta=&aq=f&oq=

2. “Chinese labor straining neighborly ties” (Asia Times) http://www.atimes.com/atimes/Southeast_Asia/KG11Ae01.html

3. Tóm tắt và bình luận bài báo trong Asia Times của đài BBC: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2009/07/090710_chineseworkers.shtml

Chú thích

[1] Ole Waever, Barry Buzan, Mortel Kelstrup & Pierre Lemaitre: Identity, Migration and the New Security Agenda in Europe, London, Pinter, 1993, tr. 21.

[2] Như trên, tr. 6.

[3] Như trên, tr. 23.

[4] Joshua Kurlantzick, Charm Offensive. How China's Soft Power is transforming the World, Yale University Press, 2007, trang 104. Có thể đọc trên mạng: http://books.google.fr/books?id=RXtJw1OHDTIC&dq=joshua+kurlantzick+charm+offensive&printsec=frontcover&source=bn&hl=fr&ei=ZqRQSoTeFuKfjAeq_MGnBQ&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=4

[5] Le Monde 7-8-2009.

[6] Chinese Soft Power and It's Implications for the United States, Center for Strategic and International Studies, Washington DC, 2009, trang 47.

[7] như trên, trang 99.

[8] Như trên, trang 30.

[9] Con số 23 triệu là do Sở thống kê quốc gia đưa ra. Con số này chưa tính đến số nông dân đã mất việc làm ở thành phố từ tháng 12-2008. Xem Le Monde 29-7-2009 (bài “Le lynchage d'un cadre, symtôme d'une économie chinoise malade”). Có chỗ nói con số đó là 26 triệu (Le Monde 16-4-2009, mục Entretien, trang 18).

[10] Như trên (chú thích 8 và 9) trang 74.

[11]Kurlantzick, đã dn, trang 106.

[12] Marie-Béatrice Baudet et Laetitia Clavreul, Les terres agricoles, de plus en plus convoitées, Le Monde 15-4-2009.

[13]Le Monde 21-4-2009 (bài viết nhan đề: “Après une offensive secrète au Kazakhstan, la Chine lorgne les terres russes inexploitées”).

[15] Bertil Lintner, China Ascendant, Part 1, Global Politician, 29-4-2008. http://www.globalpolitician.com/24617-china

[16] Kurtlantzick, trang 105.

[17] Bertil Lintner, đã dẫn.

[18]Kurtlantzick, trang 105-106.

[19] Le Monde đã dn, 19-12-2008.

[20] Bronson Percival, The Dragon Looks South. China and Southeast Asia in the New Century, Greenwood Publishing Group. 2007, trang 40. Có thể đọc trên mạng: http://books.google.fr/books?id=ihCCU-2EQHIC&dq=bronson+percival&printsec=frontcover&source=bl&ots=Z3t65J0g_K&sig=2lucFCUwLjS_hmWDetBWLyC09tE&hl=fr&ei=hq9QSsykI5fLjAeouYyqBQ&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=6

[21] Min Lwin, The Chinese Road to Mandalay, The Irrawaddy, march-april 2009, vol. 17. n° 2.

[22] Như trên.

[23] Laurent Amelot: La compétition énergétique indo-chinoise en Birmanie, Stratégique, n° 70-71. Có thể đọc trên mạng: www.strategiesinternational.com/19_11.pdf

[24]Zhuang guotu & Wang wangbo, Migration and Trade: The Role of Overseas Chinese and Economic Relations between China and Southeast Asia - International Conference on “China's Future: Pitfalls, Prospects and the Implications for ASEAN and the World”, University of Malaysia, Institute of China Studies, 5-6 May 2009, http://ccm.um.edu.my/umweb/ics/may2009/wangwb.pdf

[25]Bronson Percival, đã dn, trang 40.

[26] Zhuang & Wang đã dn

[27] Guy Lubeigt, La nouvelle poussée chinoise en Birmanie: immigration traditionnelle ou stratégie de conquête, http://www.reseau-asie.com/cgi-bin/prog/pform.cgi?langue=fr&Mcenter=colloque&TypeListe=showdoc&ID_document=240

[28]China's Cambodian Hegemony, The Diplomat, May-June 2009.

[29] Như trên.

[30]Như trên.

[31]Ces nouveaux migrants chinois d'Asie du Sud-Est, Le Monde 19-12-2008.

[32] Heike Baumüller, Can China Save Cambodia from the Global Economic Crisis? Heinrich Böll Stiftung, 1-4-2009. http://www.boell.de/wirtschaftsoziales/wirtschaft-6452.html

[33] China's Cambodian Hegemony, The Diplomat, May-June 2009.

[34]Chinese Soft Power… đã dẫn, trang 31.

[35]Như trên, trang 15-16.

[36] Như trên, trang 16

[37]Như trên, trang 16